Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79. Ảnh: TTXVN
Với vị trí địa lý chiến lược ở trung tâm Đông Nam Á, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò nổi bật trên trường quốc tế. Trải qua 80 năm độc lập và gần 40 năm đổi mới, từ một quốc gia nghèo khó, Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh, quan hệ đối ngoại mở rộng và tham gia tích cực vào các thể chế toàn cầu. Từ chỗ là nước thụ hưởng hội nhập, Việt Nam đã trở thành quốc gia kiến tạo và có trách nhiệm, đóng góp thiết thực vào ổn định và phát triển khu vực, thế giới.
Mở rộng quan hệ đối ngoại
Việt Nam luôn kiên định theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, với chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Đường lối này đã được khẳng định xuyên suốt qua các kỳ Đại hội Đảng, từ Đại hội IX (năm 2001) với tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Chủ trương này tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XIII của Đảng (năm 2021).
Chính sách đối ngoại năng động, cân bằng, linh hoạt và khôn khéo đã giúp Việt Nam tối ưu hóa các điểm tương đồng, đồng thời hóa giải những khác biệt và vấn đề nảy sinh, đặc biệt trong quan hệ với các nước lớn và các quốc gia láng giềng. Khả năng "hóa giải khác biệt" với các nước lớn cho thấy Việt Nam không phải là một bên thụ động trong quan hệ quốc tế, mà là một tác nhân có khả năng quản lý và giảm thiểu rủi ro từ cạnh tranh địa chính trị. Điều này tạo ra một môi trường ổn định hơn cho phát triển kinh tế và bảo vệ lợi ích quốc gia. Chính sách này giúp Việt Nam duy trì quan hệ tốt với nhiều đối tác, tránh phụ thuộc vào một cường quốc duy nhất, tối đa hóa lợi ích từ các mối quan hệ đa dạng, từ đó nâng cao vị thế chiến lược tổng thể.
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 nước, trong đó 3 nước quan hệ đặc biệt, 13 nước đối tác chiến lược toàn diện, 10 nước đối tác chiến lược và 14 nước đối tác toàn diện; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), WTO. Việc củng cố, mở rộng, nâng cấp và nâng tầm các mối quan hệ, cả trên bình diện đa phương và song phương, Việt Nam đã tạo ra một cục diện đối ngoại rộng mở, toàn diện và vững chắc. Kết quả quan trọng nhất của chính sách này là duy trì được môi trường hòa bình, hữu nghị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia, tạo nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Sự hợp tác này không chỉ dừng lại ở các lĩnh vực truyền thống, mà còn tích hợp các xu hướng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, khoa học công nghệ, bán dẫn và viện trợ phát riển chính thức (ODA) thế hệ mới.
Đánh giá về vai trò và đóng góp của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác khu vực và quốc tế, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 78 Dennis Francis khẳng định, Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm, liên tục có những đóng góp ý nghĩa và quan trọng cho Liên hợp quốc. Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đã thể hiện vai trò dẫn dắt trong việc đề cao tinh thần đoàn kết, thống nhất nội khối và thúc đẩy giải quyết các thách thức an ninh khu vực, đặc biệt trong hai lần đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN vào các năm 2010 và 2020. Sự chuyển đổi từ việc chỉ là "bạn" sang "đối tác có trách nhiệm" thể hiện sự trưởng thành trong tư duy đối ngoại của Việt Nam, không chỉ là tuân thủ luật chơi mà còn là chủ động đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Tham gia tích cực vào các hoạt động chung
Lực lượng cứu hộ của Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn trong thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: TTXVN
Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là một nhiệm vụ quan trọng, hiện thực hóa đường lối hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đây là một quyết định mang tính đột phá trong công cuộc đổi mới đất nước, thể hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình. Dấu mốc đặc biệt quan trọng là năm 2012, Bộ Chính trị đã thông qua "Đề án tổng thể về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc", tạo tiền đề triển khai lực lượng chính thức từ năm 2014.
Kể từ đó đến nay, chặng đường tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam đã ghi những dấu ấn quan trọng. Theo Thiếu tướng Phạm Mạnh Thắng, Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam: “Trong 11 năm qua, từ những sĩ quan đầu tiên làm nhiệm vụ cá nhân tại Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở Nam Sudan, đến nay, Việt Nam đã triển khai thành công 1.083 lượt sĩ quan, quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam và sĩ quan Công an nhân dân với 2 loại hình đơn vị và cá nhân”.
Những đóng góp trên được Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc đặc trách về lực lượng gìn giữ hòa bình đánh giá cao, khẳng định sự tham gia tích cực, trách nhiệm và thiết thực của Việt Nam vào hoạt động gìn giữ hòa bình toàn cầu. Điều này củng cố hình ảnh Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc gia, đồng thời tạo ra một kênh ngoại giao mới để tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh.
Gần đây, Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các hoạt động cứu trợ quốc tế đối với các thảm họa thiên tai. Điển hình là việc Việt Nam đã cử đoàn 24 cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân và 76 chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia cứu nạn, cứu hộ tại Thổ Nhĩ Kỳ; hỗ trợ khẩn cấp Thổ Nhĩ Kỳ và Syria mỗi nước 100.000 USD để khắc phục hậu quả trận động đất kinh hoàng xảy ra vào tháng 2/2023. Việt Nam cử một đội cứu hộ gồm 106 người từ Bộ Quốc phòng và Bộ Công an sang Myanmar để triển khai công tác cứu nạn, cứu hộ và hỗ trợ người dân khắc phục thảm họa động đất xảy ra vào cuối tháng 3 vừa qua.
Việc Việt Nam cung cấp hỗ trợ cho các nước khác thể hiện sự linh hoạt và tinh thần đoàn kết quốc tế, không chỉ là hành động từ thiện, mà còn là cách xây dựng và củng cố các mối quan hệ song phương, đa phương dựa trên sự tương trợ và tin cậy lẫn nhau. Ngoại giao nhân đạo của Việt Nam thể hiện hình ảnh một quốc gia có trách nhiệm, nhân ái, sẵn sàng chia sẻ trong khó khăn, từ đó củng cố vị thế và uy tín trên trường quốc tế.
Khẳng định vai trò, vị thế trên trường quốc tế
Dấu ấn Việt Nam trong sứ mệnh gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Ảnh: TTXVN
Các chuyên gia quốc tế đã đưa ra nhiều nhận định tích cực về vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế. Trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN tại Australia, Giáo sư Chu Hoàng Long, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chính sách Việt Nam tại Đại học Quốc gia Australia nhận định rằng, Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc trên cả bình diện vị thế quốc gia, bao gồm kinh tế, xã hội, văn hóa và đối ngoại, cũng như trên bình diện phát triển cá nhân, nơi mỗi người dân ngày càng có cơ hội phát triển đời sống, thể chất, trí tuệ, tinh thần, tư duy và kỹ năng nghề nghiệp. Ông nhấn mạnh từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề và nghèo nàn bậc nhất thế giới, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế là một quốc gia năng động, có tiếng nói và có trách nhiệm trên trường quốc tế.
Giáo sư Chu Hoàng Long đánh giá cao nền chính trị ổn định và đường lối đối ngoại linh hoạt là hai yếu tố quan trọng nhất góp phần tạo nên sự tăng tốc rõ rệt của đất nước, giúp giữ vững môi trường hòa bình để phát triển và nâng cao hình ảnh của Việt Nam. Các chỉ số xếp hạng quốc tế cũng liên tục ghi nhận quá trình cải thiện vượt bậc của Việt Nam. Tháng 8/2020, tạp chí The Economist đã xếp Việt Nam vào nhóm 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. “Báo cáo thường niên 2024: Tự do kinh tế thế giới” do Viện Fraser (Canada) công bố cho thấy Việt Nam lần đầu tiên lọt Top 100 quốc gia và vùng ãnh thổ có chỉ số Tự do kinh tế cao nhất thế giới. Trong báo cáo này, thứ hạng của Việt Nam tăng từ vị trí 123 lên 99/165.
Theo Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO, Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia và nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Năm 2024, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là: Nhập khẩu công nghệ cao, Xuất khẩu công nghệ cao và Xuất khẩu hàng hóa sáng tạo. Đặc biệt, Việt Nam xếp hạng 6/40 quốc gia trên Bảng Chỉ số AI thế giới 2025, cho thấy vị thế nổi bật trên bản đồ công nghệ toàn cầu. Được ví như “một cuộc cách mạng”, chương trình giảm nghèo của Việt Nam từ nhiều năm qua được các quốc gia và tổ chức quốc tế ghi nhận là điểm sáng và là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững.
Theo báo cáo Chỉ số nghèo đa chiều (MPI) toàn cầu được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Sáng kiến nghèo đói và phát triển con người (OPHI) tại Đại học Oxford công bố ngày 15/7/2023, Việt Nam là một trong 25 quốc gia đã hạ được chỉ số MPI xuống một nửa trong vòng 15 năm. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định: “Những tiến bộ mà Việt Nam đạt được trong vòng chưa đầy 50 năm kể từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975 tới nay gần như không có tiền lệ”.
Phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam ngày càng hiện đại, phát triển. Ảnh: TTXVN
Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng trong 5 năm qua, được đánh giá là một trong những nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới, được xếp là nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới năm 2024. Năm 2024, với GDP đạt trên 476 tỉ USD, quy mô kinh tế của Việt Nam cao thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á xếp trên Philippines (462 tỉ USD) và Malaysia (422 tỉ USD). Với kết quả này, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2025 ước đạt 491 tỉ USD, xếp thứ 34 trên thế giới và xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á.
Đáng chú ý, IMF ước tính, đến năm 2029, quy mô kinh tế của Việt Nam sẽ đạt 627 tỉ USD, vượt qua Thái Lan (616 tỉ USD) để trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Thứ hạng của Việt Nam sẽ tiếp tục được giữ vững trong năm 2030, khi quy mô kinh tế được dự báo sẽ đạt 666,5 tỉ USD. Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh (CEBR) cũng dự báo Việt Nam sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai ở Đông Nam Á sau Indonesia và là nền kinh tế lớn thứ 20 trên thế giới vào năm 2036.
Chỉ tính riêng trong quý II/2025, GDP của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tích cực với tốc độ ước đạt 7,96% so với cùng kỳ năm trước. Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8%-10% cho năm 2025. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2025 lên 6,6%. Sự tăng trưởng này không phải là may mắn, mà là kết quả của quản lý kinh tế vĩ mô hiệu quả và khả năng thích ứng nhanh chóng của doanh nghiệp và người dân. Hành trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những bước tiến dài, mà dấu mốc quan trọng nhất là việc chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/1/2007.
Sự kiện này đã tạo ra nhiều dấu ấn tích cực, góp phần đổi mới tư duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp. Tính đến nay, Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương; ký kết, thực thi 16 FTA, trong đó có 3 FTA thế hệ mới tiêu chuẩn cao, đang đàm phán 3 FTA; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2024 đạt mức kỷ lục với 786 tỷ USD; thu hút được hơn 440 tỷ USD nguồn vốn FDI.
Việc tham gia đa dạng các FTA không chỉ nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, mà còn là một chiến lược đa dạng hóa rủi ro, tránh phụ thuộc quá mức vào một thị trường hay đối tác duy nhất. Từ đó, Việt Nam tạo ra một mạng lưới các mối quan hệ kinh tế đan xen, tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động toàn cầu.
Sau 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và khẳng định vị thế ngày càng cao trên bản đồ thế giới.