Quản lý đất canh tác bị lỏng?

Có một thực tế đang ngấm ngầm diễn ra từ mấy chục năm qua, đó là đất canh tác (bao gồm đất trồng lúa, hoa màu và một phần đất rừng) đã và đang bị thu hẹp một cách đáng lo ngại.

Sau năm 1975, cả nước có gần 8 triệu ha đất canh tác, nhưng đến nay chỉ còn 4,1 triệu ha đất trồng lúa. Đây là một thực tế cần được đánh giá đầy đủ, nghiêm túc, vì đất canh tác là loại tư liệu sản xuất đặc biệt, không phát triển mà chỉ bị thu hẹp, mất đi và nó là một trong những yếu tố mang ý nghĩa quyết định đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước không chỉ hôm nay mà cho cả mai sau.

Chẳng mấy chốc, những khu đất nông nghiệp còn lại như thế này của Hà Nội sẽ biến thành khu đô thị. Ảnh: Hoàng Lâm-TTXVN


Xét một cách toàn diện, đất canh tác bị thu hẹp dần từ những lý do chủ yếu sau đây:

Thứ nhất là việc tăng dân số một cách nhanh chóng. Hàng năm cả nước có trên 1 triệu trẻ em ra đời, tương đương với dân số 1 tỉnh trung bình (riêng năm 2006 là 1,6 triệu trẻ em ra đời).


Và hàng năm ít nhất cũng có trên 300.000 người đến tuổi trưởng thành. Lực lượng này trước hết có nhu cầu về đất ở và đất canh tác; kế đến là các nhu cầu về đời sống xã hội khác như học hành, chữa bệnh, việc làm…


Đất đó, lấy ở đâu ra nếu không phải là phần lớn chuyển từ đất canh tác (thổ canh) thành đất ở (thổ cư). Đất ở cho gần bốn trăm ngàn người chắc chắn sẽ không dưới hàng trăm ha mỗi năm.

Thứ hai, là hàng chục vạn ha đất canh tác đã được sử dụng vào việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, dịch vụ, giải trí. Có thể nói những năm qua, tỉnh, thành nào, huyện nào, thậm chí cả đơn vị xã cũng xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến nay cả nước ta đã xây dựng được gần 200 khu công nghiệp, khu chế xuất, sử dụng trên 8 vạn ha đất.


Đó là chưa kể diện tích đất cho xây dựng các khu du lịch, dịch vụ như sân gof, đường giao thông… Điều đáng nói là phần lớn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị đều được xây dựng trên vùng đất canh tác loại 1 hoặc loại 2. Khu công nghiệp Mê Linh (Vĩnh Phúc), Từ Sơn, Gia Bình (Bắc Ninh), xung quanh thành phố Hải Phòng, Hải Dương, các quận, huyện ngoại thành TP.HCM, các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước… là những ví dụ điển hình.


Bởi lẽ, ở đó nhà đầu tư thấy có nhiều cái lợi. Họ không phải bỏ nhiều vốn để xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng như: San ủi mặt bằng, giao thông, bến bãi, điện, nước, thông tin, truyền thông… Tình trạng vận chuyển cát, sỏi, đá đổ lên đất canh tác, san lấp tạo mặt bằng xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị đang diễn ra rất phổ biến. Những vùng đất như thế sau thời gian dài sử dụng sẽ bị ô nhiễm nặng, rất khó đưa trở lại thành đất canh tác.

Đi liền với sự phát triển các khu công nghiệp là xu hướng đô thị hóa. Qua 24 năm tiến hành CNH – HĐH, nhiều thị tứ trở thành thị trấn, thị trấn trở thành thị xã, thị xã lên thành phố; thị xã, thành phố loại 3 lên loại 2…


Vì vậy, hàng vạn ha đất canh tác đã nhanh chóng trở thành đất ở. Điều này lý giải vì sao, dọc theo các tuyến đường quốc lộ từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây, trước kia có nơi hoang vắng là thế, nay nhà chung cư, khách sạn, nhà hàng, quán… mọc lên san sát.

Nguyên nhân thứ ba là phát triển thủy điện. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, khi Nhà máy thủy điện Hòa Bình tích nước vào hồ thì hàng nghìn ha (trong đó phần lớn là đất canh tác) đã bị chìm sâu trong nước. Theo Hội Bảo vệ tài nguyên và môi trường thì đến nay cả nước có 2.000 hồ chứa thủy lợi và thủy điện; tổng dung tích là 35 tỷ m3 nước. Ngoài việc nhấn chìm hàng chục vạn ha đất, việc tích một lượng nước lớn như vậy ở các hồ thủy điện và thủy lợi sẽ ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, an toàn đối với từng khu vực nói riêng và quốc gia nói chung.

Nguyên nhân thứ tư, là đất canh tác sử dụng vào mục đích giao thông và các hiện tượng biến động tự nhiên khác như sự di chuyển của cát, sụt lở và đất bị thái hóa, bạc màu.

Thực hiện công cuộc CNH – HĐH nền kinh tế đất nước thì việc phát triển giao thông là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Chỉ tính riêng từ năm 1998 đến nay, hàng vạn ha đất đã được sử dụng vào việc xây dựng và mở rộng các tuyến đường giao thông (trong đó một nửa là đất canh tác


Chỉ riêng việc mở rộng đường quốc lộ số 1, quốc lộ số 5, cao tốc TP.HCM – Trung Lương, đại lộ Thăng Long, các cảng hàng không… thời gian qua sử dụng tới 2,7 vạn ha đất. Và sắp tới sẽ có nhiều nghìn ha đất canh tác được sử dụng vào việc xây dựng cảng hàng không miền Bắc, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội – Lào Cai…

Ngoài ra, do sử dụng đất tùy tiện, thiếu khoa học, kéo dài mấy thập kỷ qua đã dẫn đến tình trạng sa mạc hóa cục bộ, khá phổ biến. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thì cả nước hiện có tới 2 triệu ha đất đang bị thoái hóa nặng. Chỉ tính riêng 10 tỉnh miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận đã có tới 419.000 ha đang sa mạc hóa cục bộ.


Con số này ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là 43.300 ha (tất nhiên những con số trên không phải tất cả là đất canh tác). Và mỗi năm cả nước mất đến 350 ha đất canh tác do sạt lở ở các dòng sông, trên 40 ha bị cát di chuyển vùi lấp


Đó chưa nói tới những hậu quả nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu nước biển dâng cao 1 m thì 12% diện tích đất liền của VN sẽ bị chìm trong nước. Trong 12% đó chủ yếu lại là đất canh tác ở hai vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.

Từ những phân tích trên có thể thấy, nếu cứ quản lý và sử dụng đất một cách tùy tiện, với những quy hoạch và tính toán vì lợi ích cục bộ trước mắt, vô trách nhiệm với mai sau, thì không bao lâu nữa diện tích đất canh tác của nước ta chỉ còn hai phần ba so với hiện tại. Khi đó, từ một nước xuất khẩu nông sản có thứ hạng trên thế giới, nước ta sẽ lâm vào tình trạng thiếu lương thực một cách trầm trọng. Bởi đến năm 2020 dân số nước ta sẽ trên 100 triệu người, phải cần tới 50 triệu tấn lương thực.

Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia đang thiếu lương thực một cách trầm trọng. Nhiều nước như Ấn Độ, Nga, Braxin, và ngay cả Trung Quốc, sau một giai đoạn tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ, các quốc gia đã lâm vào tình trạng thiếu lương thực. Vì thế, gần đây họ đã phải đưa hàng triệu ha đất trở lại trồng ngũ cốc, nhằm đảm bảo ổn định lương thực.

Rõ ràng, đã đến lúc chúng ta cần nhận thức thật sâu sắc về việc sử dụng tiết kiệm, khoa học và có hiệu quả đất canh tác. Đó không chỉ là chuyện trước mắt mà còn có ý nghĩa sống còn cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. Mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi công dân phải biết tiết kiệm, yêu quý, giữ gìn từng tấc đất của Tổ quốc. Bởi đó là đất và nước mà ông cha, tổ tiên ta ngàn đời nay phải đổ bao nhiêu mồ hôi, xương máu mới có được.

Ở tầm vĩ mô, công tác quy hoạch về sử dụng đất nói chung, đất canh tác nói riêng, phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước, phải được nghiên cứu một cách khoa học, có tầm nhìn chiến lược đồng thời lại phải rất cụ thể, chi tiết đối với từng vùng, từng khu vực nhằm sử dụng đất tiết kiệm và đạt hiệu quả cao nhất. Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản quy phạm pháp luật, có chế tài mạnh để xử lý, ngăn chặn những hành vi sử dụng hoang phí thậm chí hủy hoại đất đai nói chung, đất canh tác nói riêng.

Chỉ có như vậy, tình hình KT-XH của đất nước mới luôn trong thế ổn định và phát triển vững chắc, các thế hệ mai sau mới còn đất để làm ăn và sinh sống.

Minh Đức

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN