Hành trình hồi sinh làng nghề ở nơi 'quê lúa, đất nghề'

Được coi là mảnh đất “quê lúa, đất nghề, chị Hai năm tấn” song trải qua nhiều thăng trầm lịch sử cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội, đô thị hóa, nhiều làng nghề truyền thống tại Thái Bình đã và đang đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền.

Chú thích ảnh
Công đoạn kéo kén tằm thành từng sợi. Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN

Để tháo gỡ khó khăn, “hồi sinh” làng nghề ở địa phương, tỉnh Thái Bình đang thực hiện nhiều giải pháp vừa để bảo tồn, phục hồi, phát triển làng nghề vừa tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nông thôn.

Làng nghề dệt đũi xã Nam Cao (nay là xã Thống Nhất, huyện Kiến Xương) có tuổi đời gần 400 năm. Trước kia, dệt vải đũi xã Nam Cao nổi tiếng khắp cả nước nhờ những sản phẩm được làm thủ công với rất nhiều công đoạn. Từ khâu chọn nguyên liệu tới khi thành phẩm đều đòi hỏi sự công phu, cần mẫn, tỉ mỉ bằng sự khéo léo, thủ công là chính.

Thời kỳ đỉnh cao, sản phẩm làng nghề được ưa chuộng và xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới với hàng triệu mét vải mỗi năm. Tuy vậy, những năm thập kỷ 90 đến khoảng năm 2010, làng nghề Nam Cao hoạt động cầm chừng do thị trường bị thu hẹp, sản phẩm không cạnh tranh được với vải vóc, quần áo may công nghiệp. Nhiều thợ dệt Nam Cao chuyển sang làm những việc khác mang lại thu nhập cao hơn. Làng nghề từng nổi danh một thời trở nên trầm lắng hơn bao giờ hết, từ cả làng, cả xã làm nghề thì chỉ còn vài hộ duy trì giữ nghề.

Chú thích ảnh
Kén tằm sau khi luộc sẽ được ngâm nước lạnh rồi kéo thành từng sợi. Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN

Chị Lương Thanh Hạnh, Giám đốc Hợp tác xã Dệt đũi Nam Cao (huyện Kiến Xương) chia sẻ, dù không phải người dân gốc Nam Cao nhưng khi tới thăm làng nghề, chị cảm thấy rất tiếc nuối khi một “thương hiệu” giá trị bao đời bị lãng quên, trong khi giá trị của vải đũi vẫn là thị trường đầy tiềm năng, nhất là khách nước ngoài. Với quyết tâm làm sống lại làng nghề, năm 2013 chị Hạnh đã quyết định từ bỏ công việc làm nội thất, trang trí để đến Thái Bình và thực hiện các dự án “hồi sinh” nghề dệt đũi Nam Cao với việc hình thành chuỗi giá trị từ vùng nguyên liệu, sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu.

Hiện tại, Hợp tác xã Dệt đũi Nam Cao có khoảng 500 loại sản phẩm khác nhau cung ứng cho thị trường, trong đó xuất khẩu tại 20 nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Italy, Australia, Ấn Độ, Hàn Quốc và nhiều nước Trung Đông khác, doanh thu trên 10 tỷ đồng/năm. Đặc biệt, cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm nay, lần đầu tiên bộ sưu tập đũi Nam Cao sẽ xuất hiện tại Milan (Italy). Đây không chỉ là niềm tự hào của Việt Nam nói chung mà còn là sự tự hào của người dân Nam Cao nói riêng trong việc “hồi sinh” làng nghề truyền thống tưởng chừng đã bị mai một, lãng quên.

Chú thích ảnh
Công đoạn se sợi để dệt lụa đũi. Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN

Nghệ nhân làng dệt đũi Nam Cao Hoàng Thị Hương cho biết, khoảng 10 năm trước, cả xã chỉ còn vài ba hộ còn làm nghề, đến nay Hợp tác xã Dệt đũi Nam Cao đã phục hồi với gần 300 thành viên, làng nghề nhộn nhịp trở lại với thu nhập trung bình từ 5 đến 8 triệu đồng/người/tháng. Đặc biệt, không chỉ tập trung phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm mà Hợp tác xã Dệt đũi Nam Cao còn gắn với phát triển làng nghề với du lịch, trong đó duy trì khoảng 10.000 khách quốc tế, 15.000 khách Việt Nam tới thăm và trải nghiệm các hoạt động của làng nghề.

Giám đốc Hợp tác xã Dệt đũi Nam Cao Lương Thanh Hạnh cho biết, năm 2023 nghề dệt đũi Nam Cao đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Để phát huy giá trị di sản cũng như bảo tồn, phát triển làng nghề, chính quyền địa phương đã quy hoạch diện tích 4,5 ha; dự kiến sau khi hoàn thành, số lượng du khách tới thăm quan sẽ gấp 3 - 5 lần, qua đó tạo giá trị bền vững trong phát triển làng nghề truyền thống dệt đũi Nam Cao.

Chú thích ảnh
Công đoạn quay tơ. Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN

Đây cũng là hợp tác xã tiêu biểu của tỉnh Thái Bình hiện nay trên hành trình “hồi sinh” làng nghề thời gian qua. Thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Bình, toàn tỉnh có 141 làng nghề đã được UBND tỉnh cấp bằng công nhận; trong đó, có 98 làng nghề còn duy trì hoạt động sản xuất (chiếm 69,5%), 21 làng nghề hoạt động cầm chừng, có nguy cơ bị mai một (chiếm 14,9%) và 22 làng nghề hiện không còn hoạt động (chiếm 15,6%).

Đáng lưu ý, làng nghề hoạt động chủ yếu trong nhóm ngành nghề sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ với 86 làng (chiếm 72,3%); 9 làng nghề làm các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn (chiếm 7,5%); 4 làng sản xuất thủ công mỹ nghệ (chiếm 3,4%); có 16 làng nghề truyền thống có lợi thế về du lịch, cần được ưu tiên bảo tồn, phục hồi và phát triển.

Với mục tiêu gìn giữ và phát huy các nghề truyền thống, đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, xây dựng thương hiệu của các sản phẩm làng nghề đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, tỉnh Thái Bình đang thực hiện Đề án bảo tồn, phục hồi và phát triển làng nghề, nghề truyền thống.

Mục tiêu đến năm 2025 có trên 70% làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động có hiệu quả; 80% người lao động trong làng nghề được đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng nghề, kỹ năng vệ sinh an toàn lao động và kiến thức công nghệ thông tin cơ bản. Bên cạnh đó toàn tỉnh có ít nhất 50% làng nghề truyền thống có sản phẩm được phân hạng theo Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Đến năm 2030 sẽ có 80% làng nghề hoạt động hiệu quả; phát triển khoảng 3 làng nghề gắn với du lịch....

Chú thích ảnh
Công đoạn dệt lụa đũi. Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN

Xác định rõ khó khăn của làng nghề địa phương với khả năng đáp ứng nguồn nguyên liệu đầu vào cho các làng nghề hoạt động chỉ chiếm khoảng 20%, còn lại là nguyên liệu từ các tỉnh ngoài và nguyên liệu nhập khẩu với 80%, trong khi giá cả nguyên liệu ngày một tăng cao, tỉnh Thái Bình sẽ phát triển các vùng nguyên liệu tập trung, ổn định như các vùng trồng cây hàng năm, cây dược liệu, cây dâu, cói… tại các địa phương có điều kiện phù hợp; đồng thời khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân đầu tư ra tỉnh ngoài để liên kết phát triển vùng nguyên liệu.

Việc phục hồi và phát triển làng nghề được thực hiện theo hướng hình thành các chuỗi liên kết giá trị từ vùng nguyên liệu, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, trong đó tỉnh có cơ chế hỗ trợ hạ tầng sản xuất, xử lý môi trường làng nghề; xúc tiến thương mại; hỗ trợ xây dựng vùng nguyên liệu; đào tạo nghề cho lao động nông thôn và hỗ trợ công nhận mới nghề, làng nghề truyền thống.

Thu Hoài (TTXVN)
Khai mạc Liên hoan Du lịch, Ẩm thực - Làng nghề Bắc Ninh năm 2024
Khai mạc Liên hoan Du lịch, Ẩm thực - Làng nghề Bắc Ninh năm 2024

Tối 14/11, tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai mạc Liên hoan Du lịch, Ẩm thực - Làng nghề Bắc Ninh năm 2024. Đây là hoạt động nhằm kỷ niệm 15 năm di sản văn hóa Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESSCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN