Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc - Bài 2: Việt Nam có chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa

Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Chủ quyền không thể tranh cãi

Các ghi chép lịch sử chính thức cho thấy, ít nhất từ thế kỷ XVII các hoàng đế Việt Nam đã xác lập chủ quyền và có các hoạt động khẳng định chủ quyền, thực thi chủ quyền nhà nước một cách hòa bình và liên tục đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khi các vùng lãnh thổ này được xem là vô chủ. Cụ thể, nhà Nguyễn đã thành lập Hải đội Hoàng Sa để khai thác kinh tế và thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước khác đối với hai quần đảo này. Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây dựng ngôi chùa “Hoàng Sa tự” và đặt một tượng đá trên quần đảo Hoàng Sa...


 

Bộ Atlas gồm 6 tập khổ lớn được xuất bản năm 1827 có giá trị khoa học và pháp lý cao trong việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Như vậy, công việc thực thi chủ quyền của các hoàng đế Việt Nam liên tục trong suốt mấy thế kỷ mà không bị một nước nào, kể cả Trung Quốc, phản đối. Với một thời gian dài như vậy, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý để khẳng định rằng chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập từ thời phong kiến đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Trong khi đó, Trung Quốc không hề có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Nhiều bản đồ, gần nhất là bản đồ của Trung Quốc xuất bản đầu những năm 30 của thế kỷ trước, mô tả đảo Hải Nam là tận cùng phía nam của Trung Quốc, không hề có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều người hẳn chưa quên sự kiện tháng 3/2014, nhân chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Cộng hòa Liên bang Đức, Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức bà Angela Merkel đã tặng Chủ tịch Tập Cận Bình món quà là một trong số các bản đồ nói trên.

 
Sau thời kỳ nhà Nguyễn, chính quyền bảo hộ Pháp và Việt Nam đều tiếp tục duy trì chủ quyền và quản lý trên thực tế đối với hai quần đảo này. Khi thiết lập nền bảo hộ tại Việt Nam vào năm 1884, Pháp đã tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhân danh Việt Nam, xây dựng Trạm khí tượng trên quần đảo Hoàng Sa. Thậm chí cuối năm 1973, các binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đóng trên quần đảo còn cứu một gia đình ngư dân (5 người) Trung Quốc chẳng may gặp sóng to, gió lớn dạt vào đảo, chia sẻ khẩu phần ăn ít ỏi của mình để cưu mang gia đình ngư dân này.


Tháng 9/1951, Hội nghị hòa bình San Francisco với sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia, nhằm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đã công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại hội nghị này, Trưởng phái đoàn Việt Nam, ông Trần Văn Hữu, khi đó là Thủ tướng dưới thời Vua Bảo Đại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước sự hiện diện của đại diện 50 nước khác, trong đó có Trung Quốc, mà không gặp phải sự phản đối nào. Trong khi đó, có tới 46/51 quốc gia tham dự Hội nghị đã bác bỏ đề nghị công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Tháng 7/1954, các bên trong đó có Trung Quốc, tham gia Hội nghị Geneva 1954 về lập lại hòa bình ở Đông Dương, đã ký kết Hiệp nghị Geneva công nhận và tôn trọng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau khi Pháp rút các lực lượng khỏi Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa đã phục hồi việc thực thi chủ quyền, quản lý đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có nhiều hành động và đưa ra một số tuyên bố để khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo này. Ấy vậy, năm 1956, Trung Quốc đưa quân đánh chiếm khu vực phía Đông và tháng 1/1974, chiếm nốt khu vực phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tiếp đó, tháng 3/1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma do Việt Nam quản lý.


Theo luật pháp quốc tế, việc sử dụng vũ lực để chiếm hữu lãnh thổ là không được thừa nhận. Hành động nói trên của Trung Quốc đã vi phạm một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, được ghi trong Điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc. Do đó, việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở Trường Sa hiện nay là không có giá trị, dù Trung Quốc đã ở đó bao lâu và thực hiện những biện pháp gì nhằm thực thi sự quản lý. Cho nên, tuyên bố Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với “Tây Sa” (Hoàng Sa), “Nam Sa” (Trường Sa) là phi pháp.

Trong khi đó, từ sau năm 1974, Việt Nam tiếp tục khẳng định và chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam phản đối các hoạt động phi pháp cũng như yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa.


Về Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng


Một số học giả Trung Quốc cố tình trích dẫn sai Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, như là một sự thừa nhận công khai chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Trong Công thư, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập một từ nào về các lãnh thổ của Trung Quốc, lại càng không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ ủng hộ tuyên bố của Trung Quốc về vùng lãnh hải 12 hải lý. Hơn nữa, việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập tới các quần đảo trên là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, bởi các quần đảo này đang nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa kể từ sau Hiệp nghị Geneva năm 1954 như đã nói ở trên.

Với tư cách là một nước tham gia và “giúp” Việt Nam đàm phán Hiệp nghị Geneva năm 1954, Trung Quốc biết rõ hơn ai hết phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam được chia tại vĩ tuyến 17. Hơn nữa, các tuyên bố của Trung Quốc rằng không có tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa là hoàn toàn trái ngược với những gì các lãnh đạo Trung Quốc đã thừa nhận. Tháng 9/1975, Phó Thủ tướng Trung Quốc khi đó là ông Đặng Tiểu Bình đã nói với Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn rằng hai bên (Trung Quốc và Việt Nam) có các quan điểm khác nhau về Hoàng Sa và Trường Sa và vấn đề này có thể được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán(!).


PGS. TS Nguyễn Hồng Quân

Bài cuối: Trung Quốc hành xử trái luật pháp quốc tế

Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc - Bài cuối: Trung Quốc hành xử trái luật pháp quốc tế
Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc - Bài cuối: Trung Quốc hành xử trái luật pháp quốc tế

Từ tháng 5/2014, khi đặt giàn khoan Hải Dương - 981, Trung Quốc luôn biện minh cho hành động ngang ngược của mình là giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cái gọi là “Tây Sa” (Hoàng Sa) của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn phi pháp, sai trái về mặt luật pháp quốc tế...

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN