Chầm riêng chà pây là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đồng bào Khmer, thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội và sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, hiện nay loại hình nghệ thuật này đang bị mai một, rất cần được bảo tồn và gìn giữ. Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp nghệ thuật Chầm riêng chà pây vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là bước đi đầu tiên trong việc bảo tồn và gìn giữ loại hình nghệ thuật này.
Nghi thức buộc chỉ đỏ trong lễ cúng tổ Chầm riêng chà pây. |
Việt Nam có hơn 1,3 triệu đồng bào Khmer, sinh sống chủ yếu tại miền Tây Nam bộ, trong đó tập trung nhiều ở 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Là dân tộc có chữ viết riêng, từ lâu đời đồng bào Khmer đã biết ghi chép những sáng tác dân gian cũng như những tư liệu tôn giáo trên sa tra, kờ răng để lưu truyền. Họ cũng có nhiều loại hình nghệ thuật rất độc đáo như hát múa rô băm, nghệ thuật sân khấu kịch hát dù kê, nghệ thuật điêu khắc, trang trí, hội họa, âm nhạc, hát, múa, văn học dân gian…
Đặc biệt, đồng bào Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đang kế thừa một di sản văn hóa vô giá, đó là kho tàng nhạc khí dân tộc rất phong phú, đa dạng, mang đặc trưng văn hóa của đồng bào Khmer, trong đó có nghệ thuật Chầm riêng chà pây (chầm riêng nghĩa là hát, chà pây tức là cây đàn chà pây), một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian có từ lâu đời.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu văn hóa Khmer vẫn chưa xác định được Chầm riêng chà pây xuất phát từ đâu và có từ khi nào. Nhưng ở Trà Vinh nói riêng và Tây Nam bộ nói chung, nhất là những vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống thì nghệ thuật này khá phổ biến trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đây là loại hình nghệ thuật độc xướng với đàn chà pây đệm theo.
Giống như hát xẩm ở miền Bắc, người chơi Chầm riêng chà pây phải tự mình biết chơi nhạc cụ. Nhạc cụ ở đây chỉ có độc nhất là cây đàn chà pây. Theo nhạc sĩ Sơn Ngọc Hoàng, cây đàn chà pây có nguồn gốc từ Ấn Độ, thuộc loại nhạc khí dây gẩy. Đàn chà pây có cần đàn dài, thùng đàn to với nhiều kiểu như: Hình thang cân, hình lá bồ đề, hình trái thơm (dứa) và gần giống như đàn đáy của người Việt, nhưng 4 góc thùng đàn được cắt tròn chứ không vuông góc. Đàn chà pây có 12 phím đàn, theo hệ thống thang âm ngũ cung. Cấu tạo đàn chà pây gồm có các bộ phận thùng đàn, dọc đàn (cần đàn), dây đàn, bộ phận lên dây và phím gảy đàn. Đàn chà pây có màu âm trầm ấm, sâu lắng, phù hợp với những thể loại nhạc tự sự, tình cảm êm đềm, lắng đọng, tầm âm đàn chà pây khoảng 2 quãng 8. Đàn chà pây thường được sử dụng cho đơn ca độc tấu, gọi là “ca kể chuyện”.
Ngoài ra, nhạc cụ này còn được sử dụng trong dàn nhạc lễ cưới hoặc cúng thần gọi là chà pây đon vênh; sử dụng để đệm cho hát múa song ca nam nữ đối đáp (a day đối đáp). Do cấu tạo cần đàn khá đặc biệt và độc đáo nên nghệ nhân cần phải có kỹ thuật tay trái linh hoạt và điêu luyện.
Nghệ nhân Chầm riêng chà pây thường dựa vào cốt truyện để ứng tác thành những đoạn thơ, chủ yếu là thể thơ 4 câu, mỗi câu 7 chữ để hát. Trong lúc diễn tấu, nghệ nhân đàn từng đoạn nhạc sau đó tự hát từng câu ứng tác về một đề tài đã chuẩn bị sẵn. Bài bản không chỉ là những tác phẩm đã soạn sẵn mà còn do nghệ nhân ngẫu hứng ứng tác nhanh tại chỗ để độc diễn. Không gian và thời gian của một cuộc biểu diễn Chầm riêng chà pây cũng rất tự do, không bị ràng buộc bởi một quy định nào.
Tùy ngữ cảnh, người nghệ nhân có thể biểu diễn kéo dài từ 1-2 giờ, trong những cuộc vui như đám cưới, hay các lễ hội lớn trong làng, người chơi Chầm riêng chà pây có thể ứng tác và say mê đàn hát từ lúc hoàng hôn xuống cho đến tận tinh mơ sáng hôm sau. Do lời thơ chủ yếu là được ứng tác, do tài nghệ riêng của từng nghệ nhân nên từ khúc nhạc dạo, câu nhạc đệm cùng với cách luyến láy và khúc nhạc kết đến giọng điệu của mỗi người tạo nên sắc thái độc đáo riêng, đây chính là nét độc đáo nhất của loại hình nghệ thuật dân gian này.
Bài và ảnh: Văn Tưởng
Bài cuối: Hãy giữ lấy di sản quý của dân tộc