Khắc phục tình trạng chồng chéo chính sách

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có những chính sách đầu tư lớn cho vùng dân tộc thiểu số (DTTS), từng bước làm thay đổi bộ mặt miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, các chính sách này còn chồng chéo về nội dung, đối tượng hưởng thụ và cả thời gian thực hiện trên cùng một địa bàn, nên chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Xóa nghèo chưa bền vững

Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc, tình hình kinh tế - xã hội vùng DTTS thời gian qua đã có những chuyển biến, tiến bộ rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ 39,27%, năm 2006, xuống 20,11%, năm 2012; thu nhập bình quân tăng gấp 3 lần so với năm 2006, đạt 15,22 triệu đồng/người/năm.


 

Hỗ trợ nước sinh hoạt cho hộ đồng bào nghèo theo Chương trình 134 do UBDT chủ trì.

 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đời sống của đồng bào DTTS còn gặp nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo thiếu bền vững, tỷ lệ hộ nghèo còn cao như Lai Châu 55,32%; Điện Biên 40,77%; Yên Bái 59,98%; Quảng Ngãi 45,5% và Quảng Bình 42,2%... Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Còn rất nhiều thôn, bản, chưa có điện, đường, cầu... Hiện nay, có hơn 2.200 xã khu vực III, địa bàn hết sức khó khăn; trên 3.000 thôn thuộc xã khu vực II. Do địa bàn khó khăn, nên chỉ cần một đợt thiên tai hoặc một khó khăn kinh tế, hộ nghèo lại tái nghèo trở lại.


Theo Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Sơn Phước Hoan một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do nền kinh tế khó khăn, nên chính sách đầu tư nói chung và chính sách dân tộc nói riêng chưa đảm bảo theo mục tiêu đề ra, có những chính sách mới đạt được 30 - 40%, cao nhất cũng chỉ đạt được 50 - 60% so với mục tiêu đặt ra. Thứ trưởng lấy ví dụ: Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã như điện, đường, trường, trạm, thủy lợi kinh phí không đáp ứng được, nên nhiều công trình dở dang. Hay như Chương trình 135 giai đoạn 2, vốn đầu tư hỗ trợ trong 5 năm bình quân mới đạt được 5,2 tỷ đồng/xã.


Một nguyên nhân nữa là do năng lực tiếp nhận, quản lý các dự án của các cơ sở được thụ hưởng và đối tượng được thụ hưởng đều chưa đáp ứng được. Cơ sở được giao làm chủ đầu tư không làm được, nếu có làm thì tổ chức triển khai không đến nơi đến chốn, nhất là gắn với cơ sở hạ tầng.

Chính sách chồng chéo


Theo Thứ trưởng Sơn Phước Hoan, hiện có 16 chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai tại vùng DTTS, ngoài ra còn có các chương trình do từng cơ quan, bộ, ngành thực hiện theo chức năng quản lý nhà nước. Nếu như 16 chương trình mục tiêu quốc gia cùng đồng bộ sẽ có tác dụng lớn.

 

Nhưng chương trình nào cũng có cơ chế riêng, nên các địa phương không thể lồng ghép được. Thứ trưởng Sơn Phước Hoan dẫn chứng: Chương trình 134, 135 của UBDT cũng tham gia vào thủy lợi nhỏ, tập trung vào nước phân tán, nước tập trung đến tận hộ nghèo ở vùng khó khăn. Còn các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch nông thôn của Bộ NN&PTNT chỉ đi tới xã, kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm, chứ không hỗ trợ hoàn toàn. Hai chương trình này có cơ chế khác nhau, nên không thể lồng ghép.


Cũng theo Thứ trưởng Sơn Phước Hoan, ngoài chồng chéo về chính sách, các chương trình còn chồng chéo về địa bàn. Chương trình 30a thực hiện ở các huyện nghèo, cũng lại là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. “Chồng chéo như vậy, nên ai đến kiểm tra cũng được, báo cáo có khi do UBDT làm, có khi do Bộ LĐTB&XH. Chính điều này làm cho việc phát huy hiệu quả của chính sách không như mong muốn, làm hạn chế kết quả và thực hiện chính sách trên các địa bàn khó khăn”, Thứ trưởng nhấn mạnh.


Mặt khác, xây dựng chính sách hiện nay còn mang tính chất nhiệm kì, mục tiêu đưa ra rất lớn, nhưng thời gian thực hiện lại ngắn, trong khi nguồn kinh phí lại không đủ. Trong khi đó, để xây dựng được một chính sách lại rất mất thời gian và quy trình cực kì khó khăn.


Những bất cập chồng chéo về đối tượng và địa bàn đã được UBDT báo cáo Thủ tướng. Bản thân các bộ, ngành cũng đã có những chuyển biến. Cụ thể, Đề án 1956 đào tạo nghề cho lao động nông thôn do Bộ NN&PTNT thực hiện, đã đưa Ủy ban Dân tộc làm thành viên Ban Chỉ đạo, bởi đối tượng 1 của Đề án là đồng bào dân tộc thiểu số. Hay Chương trình 134, ban đầu sự phối hợp giữa Bộ GD - ĐT và UBDT không rõ, đối tượng cử tuyển là con em đồng bào dân tộc thiểu số nhưng hầu như tất cả mọi khâu đều do Bộ GD - ĐT thực hiện. Trong thời gian qua, Bộ GD - ĐT và UBDT đã bàn bạc, dự kiến đưa chương trình cử tuyển cho UBDT chủ trì phối hợp với các bộ, ngành giao chỉ tiêu cho các địa phương xem xét ngành nghề đào tạo nào phù hợp, xem dân tộc nào ít được đào tạo, dân tộc nào có đối tượng cán bộ còn quá ít, địa bàn nào đào tạo nhiều chuyển sang địa bàn ít.
Với những nỗ lực này, tình trạng chồng chéo, thiếu hiệu quả của các dự án sẽ có “cơ hội” để được khắc phục.


Bài và ảnh: Minh Phúc

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN