Từ bình minh độc lập đến khát vọng bay xa - Bài 2: Dựng nước hôm qua, giữ nước hôm nay

Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng độc lập không phải món quà, hòa bình là cái giá trả bằng máu. Mỗi bước tiến trong hành trình giữ nước đều được đánh đổi bằng máu xương của triệu người con đất Việt.

Những bước chân ra trận

Chưa đầy một năm sau ngày độc lập, thực dân Pháp đã trở lại, mưu đồ biến Việt Nam một lần nữa thành thuộc địa. Trước tình thế đó, toàn dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Thay mặt Chính phủ mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên thệ cương quyết lãnh đạo nhân dân kháng chiến, thực hiện nền dân chủ Việt Nam, mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc “quyết vượt mọi nỗi khó khăn dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ”.

Chú thích ảnh
Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chín năm ròng rã, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” ngày 7/5/1954, buộc Pháp ký Hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.

Đại tá Nguyễn Hữu Tài (96 tuổi, hiện ở phố Điện Biên Phủ, Hà Nội), nguyên Phó Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Quốc phòng, là Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 trong chiến dịch ấy. Ông bảo, không chỉ 56 ngày “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, tính cả hành quân, kéo pháo vào - ra, đào công sự, chiến đấu… thì chiến dịch là 120 ngày. “Làm sao tôi quên được cảnh mở đường cho pháo qua khúc cua hẹp, tay bỏng rát phải xé quần để lót, kéo khối thép hơn hai tấn qua dốc 60 độ còn bên kia là vực thẳm”, ông Nguyễn Hữu Tài nhớ lại.

Trận Him Lam - nơi Pháp coi là “pháo đài bất khả xâm phạm”, in sâu trong ký ức vị Đại tá già. Buổi chiều hôm đó, Chỉ huy Trung đoàn đọc thư Bác Hồ, lệnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi cùng bộ đội khắc 4 chữ “Quyết chiến, quyết thắng” lên báng súng. Đấy cũng là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội ta, văn công biểu diễn ngay trước giờ nổ súng.

“Hoàng Cầm đàn ắc-coóc-đê-ông, Quốc Thanh kéo vi-ô-lông và hát bài Chiến sỹ Việt Nam. Tiếng đàn, tiếng hát vang lên ở chiến hào hòa cùng tiếng pháo, tiếng cao xạ. Rồi bộ đội ào lên vừa chạy vừa hát: Quân xung phong, nước Nam đang chờ… Không ai nghĩ đến sống hay hy sinh, chỉ hừng hực khí thế”, Đại tá Nguyễn Hữu Tài xúc động nói.

Khúc tráng ca ấy khép lại với khoảnh khắc ông Nguyễn Hữu Tài cùng Chỉ huy Trung đoàn 209 đứng đối diện tướng De Castries. Khoác lon cấp tướng, mặt cúi gằm, ánh mắt lảng tránh, De Castries lúng túng khi được hỏi “bây giờ bị bắt ở đây, ông nghĩ sao”, chỉ nhún vai đáp: “Đó là lệnh của Hà Nội”. Với ông Tài, đó là hình ảnh thất bại hoàn toàn của kẻ từng ngạo mạn và là giây phút niềm vui chiến thắng dâng trào.

Đất nước chia đôi, lòng người một dải

Chú thích ảnh
Vào lúc 24 giờ ngày 20/7/1954 (giờ Geneva), tức sáng 21/7/1954 (giờ Hà Nội), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam. Ngay sau đó, Hiệp định đình chiến ở Lào và Campuchia cũng được ký kết. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Sau chiến thắng “lừng lẫy năm châu”, Hiệp định Geneva 1954 được ký kết, Pháp phải rút khỏi Đông Dương và mở ra cơ hội tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ nhảy vào can thiệp, dựng chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, từ chối hiệp thương, trắng trợn xé nát Hiệp định. Vậy là một nửa đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn nửa kia thành căn cứ quân sự của Mỹ. Dẫu vậy, lòng dân hai miền chưa bao giờ chấp nhận chia cắt.

Hơn hai thập kỷ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bản anh hùng ca về khát vọng thống nhất, hòa bình nhưng cũng biết bao mất mát, đau thương. Những chuyến “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, những trận đánh trong lòng đô thị Sài Gòn, các chiến công trên bầu trời miền Bắc, đều mang câu chuyện về lòng dũng cảm và đức hy sinh.

Từ Ấp Bắc, Mậu Thân 1968, Đường 9 - Nam Lào, 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị, 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội cho đến Hiệp định Paris 1973, là “máu và hoa” của những con người dám hiến trọn tuổi xuân, mạng sống để Tổ quốc vẹn tròn. Tất cả từng bước đưa dân tộc tiến gần đến mùa xuân đại thắng. Và ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch quân sự cuối cùng và quan trọng nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thành công rực rỡ. Lá cờ Tổ quốc tung bay trên nóc Dinh Độc lập đã khép lại 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, non sông nối liền một dải.

Trong dòng chảy hào hùng ấy, có hình ảnh một lá cờ Giải phóng kiêu hãnh tung bay trên nóc chợ Bến Thành ngày toàn thắng. Bà Phan Thị Bé Tư (bí danh Phan Thị Định, sinh năm 1948), nữ cựu tù chính trị Côn Đảo là một nhân chứng lịch sử. Khi ấy, sau 5 năm “chết đi, sống lại” ở những “địa ngục trần gian” của Mỹ, nguỵ, bà Bé Tư được trao trả cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris về Việt Nam. Sau đó, bà thuộc Liên quận 2-4, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh và thực hiện nhiệm vụ cắm lá cờ Giải phóng trên nóc chợ Bến Thành.

“Phút giây đó là nụ cười trong nước mắt. Tôi khóc vì niềm vui đất nước thống nhất, lại nhớ những người đã ngã xuống, trong đó có em trai hy sinh khi mới đôi mươi”, bà Bé Tư xúc động nói.

Bản lĩnh thời đại mới

Chú thích ảnh
Khối xe Tăng thiết giáp diễu binh trên Quảng trường Ba Đình trong buổi tổng hợp luyện A80 lần thứ 2, tối 24/8. Ảnh minh họa: Tuấn Anh/TTXVN

Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ, quân đội ta đã trưởng thành vượt bậc. Nếu những khúc tráng ca trong ba thập niên giành độc lập, thống nhất thấm đẫm xương máu và ý chí sắt đá của những thế hệ đi trước, là hơn 1,1 triệu người con ưu tú đã nằm xuống, hơn 4 triệu dân thường ở hai miền Bắc - Nam đã chết và bị thương tật suốt đời do bom đạn, do kẻ thù giết hại, thì hôm nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã bước sang trang mới. Đó là xây dựng trong hòa bình và trưởng thành, lớn mạnh trong hội nhập.

Sau ngày thống nhất, Quân đội đã phát huy vai trò nòng cốt, cùng nhân dân cả nước chiến đấu bảo vệ biên giới, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bước vào công cuộc Đổi mới, Quân đội tiếp tục giữ vững vai trò chủ lực trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên nền thế trận lòng dân vững chắc. Quân đội đã tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước, xử trí kịp thời các tình huống, không để bị động, bất ngờ.

Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã nhấn mạnh, Quân đội tiếp tục xây dựng theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, “tinh - gọn - mạnh”; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Đây là định hướng then chốt cho sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Chủ tịch nước Lương Cường cũng khẳng định, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Quân đội đã đóng góp quan trọng trong công tác đối ngoại, nổi bật là tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế Việt Nam.

Quân đội nhân dân cùng với Công an nhân dân luôn đi đầu trong phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa. Đó là minh chứng sinh động về khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Bài 3: Mở lối đưa đất nước tới tương lai

Hạnh Quỳnh - Việt Đức (TTXVN)
Từ bình minh độc lập đến khát vọng bay xa - Bài cuối: Việt Nam bứt phá để không lỡ hẹn 2045
Từ bình minh độc lập đến khát vọng bay xa - Bài cuối: Việt Nam bứt phá để không lỡ hẹn 2045

80 năm sau ngày Độc lập, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách lịch sử: Tinh gọn bộ máy Nhà nước, hợp nhất các tỉnh, thành và chuyển sang chính quyền địa phương hai cấp.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN