Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đồng chí Võ Chí Công (tên khai sinh: Võ Toàn) sinh ngày 7/8/1912 tại xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam). Tham gia hoạt động cách mạng năm 1930, vào Đảng tháng 5 năm 1935.
QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
Đồng chí sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng và hoạt động phong trào thanh niên ở cơ sở từ năm 1930 - 1931; tháng 5/1935, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Năm 1936, đồng chí làm Bí thư Chi bộ ghép (một số xã thuộc huyện Tam Kỳ). Năm 1939, làm Bí thư Huyện ủy Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1940, làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1941, đồng chí được phân công phụ trách các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Phú Yên. Năm 1942, đồng chí được phân công vào gây dựng cơ sở tại các tỉnh cực nam Trung bộ.
Năm 1943, đồng chí bị địch bắt, kết án tù chung thân, sau đó giảm xuống 25 năm tù giam ở nhà lao Hội An, sau đầy đi nhà tù Buôn Mê Thuột.
Sau đảo chính Nhật, tháng 3/1945, đồng chí ra tù về Quảng Nam làm Trưởng ban Khởi nghĩa tỉnh, chỉ huy cướp chính quyền ở Quảng Nam - Đà Nẵng.
Sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đồng chí làm Trưởng ty Tư pháp tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Chính trị viên Trung đoàn 93.
Năm 1946, làm Phó ban Tổ chức cán bộ và làm Thanh tra Quân khu V. Năm 1951, làm Bí thư Ban cán sự Đông - Bắc Miên, Khu ủy viên khu V.
Năm 1952, làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1954, làm Đoàn ủy viên cải cách ruộng đất ở khu Việt Bắc. Năm 1955, làm Phó Bí thư Khu ủy V.
Tháng 9/1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy V.
Năm 1961, làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Năm 1962, làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1964, làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, phụ trách Bí thư Khu ủy V, Chính ủy Quân khu V.
Năm 1975, sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng chí là Phó ban đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam, phụ trách khu V.
Năm 1976, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VI, được cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Bộ Hải sản.
Tháng 12/1976, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1978, đồng chí làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Trưởng ban Cải tạo nông nghiệp miền Nam.
Tháng 4/1981, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VII và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 3/1982, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, phân công làm Thường trực Ban Bí thư. Tháng 6 năm 1986, đồng chí được phân công giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 12/1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và được cử tham gia Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Tháng 4/1987, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII và được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Đồng chí là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 6/1991) và khóa VIII (tháng 6/1996). Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa VI, VII, VIII.
Do công lao và thành tích hoạt động cách mạng, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.