Quốc hội thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 3/12, với 419/420 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 88,58% tổng số đại biểu), Quốc hội đã thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp.

Chú thích ảnh
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN

Với 6 chương, 36 điều, Luật Tình trạng khẩn cấp quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành nghị quyết, lệnh về tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.

Điều 2 “Tình trạng khẩn cấp” quy định: “Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Tình trạng khẩn cấp bao gồm: Tình trạng khẩn cấp về thảm họa; tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng”.

Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội nêu rõ, có ý kiến đề nghị chuyển Điều này thành điều giải thích từ ngữ và giải thích về: tình trạng khẩn cấp; thảm họa; lực lượng nòng cốt; lực lượng rộng rãi; phương châm bốn tại chỗ.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, kế thừa quy định của Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp, Điều 2 dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng chỉ quy định chung về tình trạng khẩn cấp và phân loại tình trạng khẩn cấp, theo đó, tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, y tế, môi trường và các sự cố khác thuộc nhóm tình trạng khẩn cấp về thảm họa. Các khái niệm này đã được quy định tại các luật chuyên ngành.

Vì vậy, việc giải thích từ ngữ tại Điều này là không cần thiết và tránh chồng chéo. Tuy nhiên, trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, để bảo đảm chặt chẽ và thống nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý nội dung dẫn điều tại các Điều 13, 14 và Điều 15 như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua, theo đó, các dạng tình trạng khẩn cấp được đưa vào nội dung tại các điều luật để gắn với việc áp dụng các biện pháp tương ứng với từng loại tình trạng khẩn cấp.

Về biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa được quy định tại Điều 13, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định biện pháp tái thiết sau thảm họa để đảm bảo cho sự phát triển bền vững; rà soát chỉnh lý các khoản cho thống nhất, rõ ràng, thuận lợi trong tổ chức thực hiện.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội, dự thảo Luật quy định các biện pháp khắc phục hậu quả trong tình trạng khẩn cấp (Điều 16); thống kê, đánh giá thiệt hại (Điều 17); huy động, quyên góp và phân bổ nguồn lực cứu trợ, hỗ trợ (Điều 18); cứu trợ, hỗ trợ (Điều 19); chính sách hỗ trợ (Điều 20) đã bao hàm đầy đủ về cứu trợ, hỗ trợ khẩn cấp đến khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân và hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và sau tình trạng khẩn cấp, việc tái thiết sau thảm họa bảo đảm cho phát triển bền vững còn thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều luật có liên quan.

Trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, để chặt chẽ, thống nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý nội dung dẫn của Điều này; tách khoản 6 thành 2 khoản; đồng thời, sắp xếp, chỉnh lý lại các khoản cho thống nhất như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.

Luật Tình trạng khẩn cấp có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026. 

Hiền Hạnh (TTXVN)
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV: Không để biến động giá vàng gây bất ổn vĩ mô
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV: Không để biến động giá vàng gây bất ổn vĩ mô

Sáng 3/12, thảo luận ở hội trường đối với báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện 16 nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và khóa XV về giám sát chuyên đề và chất vấn, đại biểu Quốc hội cơ bản nhất trí với các nội dung trong báo cáo; đánh giá cao tinh thần trách nhiệm, sự nghiêm túc của Chính phủ và các cơ quan trong việc thực hiện các nghị quyết giám sát và chất vấn của Quốc hội. Thông qua kết quả thực hiện đã cho thấy Quốc hội đã chọn rất đúng, rất trúng các nội dung để giám sát và chất vấn. 

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN