Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2 năm 2025. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2 được tổ chức vào ngày 5/3/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đặt ra yêu cầu phải hoàn thành đề án sắp xếp lại địa giới hành chính, trong đó có việc sáp nhập một số tỉnh để kịp xin chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trước ngày 9/3.
Trước đó, ngày 28/2, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận 127-KL/TW về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó có việc nghiên cứu định hướng sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh.
Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy đã được triển khai quyết liệt tại các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các sở, ngành, địa phương và trở thành tiền đề quan trọng để xây dựng lộ trình triển khai sáp nhập cấp tỉnh.
Việt Nam đã trải qua nhiều đợt tách, nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Vào năm 1976 đất nước ta có 38 tỉnh, thành phố, vào năm 1978 con số đơn vị cấp tỉnh nâng lên 39, năm 1979 là 40, năm 1989 là 44, năm 1991 là 53, năm 1996 là 61, năm 2004 là 64 và năm 2008 còn 63.
Ở thời điểm sau 1976, nước ta đi theo xu hướng tách các địa phương ra nhiều tỉnh, thành phố vì điều kiện đi lại khó khăn, công nghệ, cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Hiện tại, việc chia tách này đem lại sự manh mún, không phù hợp với điều kiện thực tế và đòi hỏi của sự phát triển chung.
Việc sáp nhập tỉnh ở nước ta hiện nay được thực hiện dựa vào những tiêu chuẩn, điều kiện đã được quy định trong các nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành như Nghị quyết 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị; Nghị quyết 1211/2016/UBTVQH13 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính; Nghị quyết 35/2023/UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2030.
Cụ thể, các tiêu chí quan trọng của việc sáp nhập tỉnh là: diện tích; dân số; kinh tế; văn hóa và khả năng bổ sung, hỗ trợ nhau để phát triển. “Tiêu chí cứng” là diện tích - quy mô dân số - số lượng đơn vị cấp huyện trực thuộc.
Hiện tại, có 49 tỉnh, thành phố không đạt được 1 trong 3 tiêu chí. Như vậy, chỉ có 14 tỉnh, thành phố đạt cả 3 tiêu chí.
Thủ tướng Chính phủ lưu ý, bên cạnh tiêu chí về diện tích, dân số, số lượng đơn vị cấp huyện thì cũng cần chú trọng các tiêu chí khác như văn hóa dân tộc, vị trí an ninh quốc phòng và nhất là tiêu chí kinh tế trong bối cảnh phát triển kinh tế vùng, văn hóa vùng.
Chẳng hạn, các tỉnh có nhiều diện tích đất nông nghiệp có thể sáp nhập, hay các tỉnh ven biển sáp nhập với tỉnh ven biển, các tỉnh có nhiều khu công nghiệp hợp nhất với nhau, các tỉnh miền núi có đông đồng bào dân tộc thiểu số cũng có thể kết hợp với nhau. Các tỉnh được hợp lại với nhau phải liền kề về vị trí địa lý và có sự kết nối thuận lợi về giao thông. Quy mô dân số của một tỉnh, thành phố sau khi sáp nhập cũng phải phù hợp với mức bình quân chung của cả nước.
Một tỉnh, thành phố vốn không chỉ là một đơn vị hành chính đơn thuần mà còn có nhiều yếu tố như cộng đồng dân cư với phong tục tập quán, bản sắc văn hóa riêng, có các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đặc thù. Phải tính hết các yếu tố nói trên thì mới tránh được những khó khăn trong việc quản lý, phát triển kinh tế - xã hội cũng như tạo sự đồng thuận trong cộng đồng.
Việc sắp xếp lại địa giới hành chính không chỉ đơn giản là thu gọn số lượng tỉnh, thành phố mà quan trọng là tạo ra không gian thuận lợi cho sự phát triển và kết nối các nguồn lực khai thác tiềm năng của từng vùng.
Theo Kết luận số 127-KL/TW, việc sáp nhập tỉnh, thành phố phải phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, mở rộng không gian phát triển, phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển đối với từng địa phương và yêu cầu, định hướng phát triển của giai đoạn mới.
Những tỉnh nằm trong cùng một vùng kinh tế có nhiều mối liên kết, tương đồng với nhau về hoạt động sản xuất ngành nghề thì khi được sáp nhập sẽ gặp thuận lợi hơn trong kêu gọi đầu tư.
Bên cạnh số lượng tỉnh, thành phố sau khi sáp nhập, địa phương nào gộp vào địa phương nào thì tên gọi của các đơn vị hành chính mới cũng là mối quan tâm lớn của người dân.
Tên gọi của các địa phương không đơn thuần là danh xưng mà gắn với cộng đồng dân cư, là một phần giá trị văn hóa vùng miền, trong một số trường hợp còn là niềm tự tôn, tự hào, thậm chí là thương hiệu kinh tế-xã hội. Sự đồng thuận của người dân là một yếu tố không thể bỏ qua.
Có ý kiến cho rằng việc khôi phục lại tên gọi đã từng tồn tại trong một giai đoạn phát triển của lịch sử cũng là phương án cần được xem xét để không xóa sổ một địa danh gắn với lịch sử, văn hóa địa phương.
Lại có chuyên gia nêu ý kiến: Trong nhiều trường hợp việc tạo ra một tên gọi mới cũng là một lựa chọn hợp lý, đặc biệt khi việc sáp nhập là sự kết hợp của nhiều đơn vị có bản sắc khác nhau. Một cái tên mới mang tính đại diện rộng hơn, không nghiêng về một địa phương cụ thể, sẽ giúp tạo ra sự đồng thuận, tránh cảm giác thiên vị giữa các vùng. Quan trọng là tên gọi đó phải mang ý nghĩa tích cực, phản ánh được đặc trưng địa lý, lịch sử, văn hóa của cả khu vực được sáp nhập, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển trong thời đại mới.
Việc sáp nhập một số xã, phường hoặc huyện trong thời gian qua cho thấy người dân địa phương nào cũng muốn giữ lại tên của mình dẫn đến việc, tên gọi mới được hình thành từ việc ghép tắt các tên cũ với nhau. Trong nhiều trường hợp cách ghép này tạo ra những cái tên nghe rất gượng gạo, dài dòng, khó đọc, khó nhớ, gây tranh cãi.
Do vậy, không có công thức chung cho việc đặt tên các địa phương mới mà cần có sự linh hoạt cũng như việc nghiên cứu kỹ lưỡng, khoa học, tham khảo ý kiến của các chuyên gia văn hóa, lịch sử, người dân…
Từ góc độ thuận tiện cho người dân, có người cho rằng khi sáp nhập 3 tỉnh, thành phố với nhau thì nên chọn một cái tên cũ cho địa phương mới để hạn chế việc thay đổi, chỉnh sửa giấy tờ.
Sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới đòi hỏi việc sáp nhập tỉnh, thành phố phải thực hiện nhanh chóng, quyết liệt. Bên cạnh sự đồng thuận về chủ trương chung thì những vướng mắc cụ thể cũng gây ra những trăn trở phía người dân, có cả tâm tư từ phía các cán bộ, đảng viên.
Với tinh thần đi đầu, gương mẫu, các cán bộ, đảng viên phải kiên quyết loại bỏ tư tưởng cục bộ địa phương, “tỉnh anh, tỉnh tôi”, phân biệt “tỉnh giàu, tỉnh nghèo”.
Cán bộ “tỉnh giàu” không muốn sáp nhập với “tỉnh nghèo” vì ngại san sẻ nguồn lực “phải phấn đấu lâu năm mới có được”. “Tỉnh nghèo” cũng không muốn về với “anh hàng xóm giàu có” vì sợ bị “lép vế”. Lối suy nghĩ này cản trở sự đồng thuận vì lợi ích quốc gia, dân tộc. “Quê hương nhỏ” phải nằm trong “quê hương lớn”.
Chính tư tưởng “anh vội nhưng tôi chưa cần” tạo ra sự manh mún, cục bộ kìm hãm sự phát triển chung của đất nước.
Những suy nghĩ đúng đắn thể hiện qua các phát ngôn tích cực trong đời sống thường ngày, trên mạng xã hội của cán bộ, đảng viên có tác dụng lan tỏa một cách thiết thực đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với gia đình, đơn vị, cộng đồng dân cư.
Những viên gạch tưởng chừng như nhỏ bé của mỗi cán bộ, đảng viên sẽ xây nên con đường lớn dẫn đến thành công của công cuộc tinh gọn bộ máy tổ chức nhà nước, góp phần đưa đất nước đi tới “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.