Ngày 24/1, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam công bố Báo cáo đánh giá nghèo ở Việt Nam năm 2012 với chủ đề “Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới”.Trình bày báo cáo, Tiến sĩ Valerie Kozel, chuyên gia kinh tế cao cấp Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh: Việt Nam đã đạt được thành tích giảm nghèo ấn tượng. Thành tích của Việt Nam về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trong hai thập kỷ qua rất lớn. Tỷ lệ nghèo tính theo đầu người giảm từ 58% vào đầu thập kỷ 1990 xuống 14,5% năm 2008. Theo chuẩn này tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 10% vào năm 2010.
Việt Nam đã đạt được thành tích giảm nghèo ấn tượng. Ảnh: tapchibaohiemxahoi.gov.vn |
Việt Nam cũng đạt được những tiến bộ đáng kể ở các khía cạnh đời sống khác, từ tỷ lệ nhập học tiểu học và trung học cao, cải thiện về y tế, tới giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Trong một số trường hợp, Việt Nam thậm chí còn vượt các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Báo cáo nhận định, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng chú ý nhưng nhiệm vụ giảm nghèo vẫn chưa hoàn tất và xét ở một số phương diện, nhiệm vụ đó hiện khó khăn hơn. Dù hàng chục triệu gia đình Việt Nam đã thoát nghèo trong thập kỷ qua nhưng rất nhiều hộ dân trong số đó có thu nhập rất sát chuẩn nghèo và vẫn rất dễ tái nghèo do các cú sốc đặc thù (mất việc, tai nạn, gia đình có người ốm, tử vong), hoặc do các cú sốc có liên quan trong toàn nền kinh tế (tác động của biến đổi khí hậu tới lượng mưa và nhiệt độ, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009...).
Thành công của Việt Nam đã tạo ra những thách thức mới, đó là nhiệm vụ giảm nghèo chưa phải đã hoàn thành. Việc đảm bảo chia sẻ lợi ích từ quá trình tăng trưởng, vấn đề nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mức độ dễ bị tổn thương, khoảng cách giàu nghèo.... là những thách thức chính về giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian tới.
Báo cáo được Ngân hàng Thế gới thực hiện với sự hợp tác của Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, có tập hợp các góp ý và dữ liệu đầu vào quan trọng của các nhà nghiên cứu và chuyên gia Việt Nam cũng như các đối tác quốc tế gồm 6 chương, kèm theo 7 phụ lục.
Nguyễn Hồng Điệp