Đó là kiến nghị được nêu ra tại hội thảo với chủ đề “Lúa gạo, nông dân và phát triển nông thôn ở Việt Nam, từ tăng trưởng thành công đến thịnh vượng bền vững”, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức ngày 13/6, tại Cần Thơ.
Hội thảo nhận định: Lúa là cây trồng quan trọng nhất hiện nay tại Việt Nam. Diện tích đất lúa chiếm 44% diện tích đất nông nghiệp; 80% nông dân Việt Nam là người trồng lúa và gạo là lương thực thiết yếu hàng đầu của người Việt Nam. Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam luôn xem phát triển lúa gạo là nhiệm vụ trung tâm của phát triển nông nghiệp và đã đầu tư thích đáng xây dựng hạ tầng phục vụ nông nghiệp. Trong 20 năm qua, sản xuất lúa ở Việt Nam đã có những thành tựu ấn tượng. Việt Nam, từ một nước thiếu lương thực, đến năm 1989 đã trở thành nước xuất khẩu 1 triệu tấn gạo. Từ năm 2002 đến nay, năng suất lúa của Việt Nam luôn dẫn đầu các nước ASEAN và có ít nhất trên 500.000 ha đạt năng suất trên 7 tấn/ha trong vụ đông xuân, là mức năng suất lúa tiên tiến trên thế giới.
Tuy nhiên, nông dân trồng lúa vẫn là một trong những người nghèo nhất do chưa được tiếp cận với “chuỗi giá trị” (tham gia các khâu sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ). Hiện người trồng lúa ở Việt Nam làm trên 50% khối lượng công việc nhưng chỉ hưởng 33% giá trị tăng thêm từ lúa gạo, trong khi những đối tượng kinh doanh lúa gạo chỉ làm có 10% khối lượng công việc nhưng lại hưởng 67% giá trị tăng thêm. Ngoài ra, những vùng chuyên canh lúa lại là những vùng kém phát triển. Vì vậy, để người trồng lúa có thu nhập tương xứng và biến những vùng trồng lúa trở thành những vùng phồn vinh của nông thôn Việt Nam, đòi hỏi ngành lúa gạo Việt Nam phải có những thay đổi lớn, tạo ra bước phát triển mới trong giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Nhằm giảm bớt rủi ro và nâng cao mức thu nhập của nông dân nói chung, người trồng lúa nói riêng, đồng thời góp phần thúc đẩy vùng sản xuất lúa gạo phát triển mạnh, hội thảo kiến nghị Nhà nước cần tạo điều kiện cho nông dân được tham gia bảo hiểm nông nghiệp cũng như tham gia chuỗi giá trị sản phẩm, từ khâu cung cấp đầu vào ban đầu đến sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ. Bên cạnh đó, cần tăng năng lực thông tin, dự báo về lúa gạo nói riêng, nông sản nói chung; cải tạo và nâng cấp hệ thống kho chứa, tạo điều kiện cho nông dân tăng năng lực phơi sấy, dự trữ lúa, tiếp cận tín dụng nhiều hơn; tiếp tục đổi mới công nghệ xay xát đánh bóng gạo; hình thành các cụm kinh doanh lúa gạo trong từng vùng kinh tế trên cơ sở đổi mới công tác điều hành xuất khẩu gạo. Nhà nước cần có chiến lược về giống lúa và giống cây, con khác, đồng thời xã hội hóa khâu sản xuất lúa giống để đáp ứng nhu cầu về giống lúa cũng như các giống cây, con khác cho nông dân. Trong sản xuất, tỉ lệ giống lúa nên theo cơ cấu: 15 – 20% giống chất lượng trung bình, 60% giống chất lượng cao, 15 – 20% giống lúa thơm, đặc sản nhằm bảo đảm tính bền vững, duy trì nguồn gen đa dạng, hợp lý và quản lý đặc điểm di truyền giống lúa hiệu quả... Nhà nước cần tạo điều kiện để “4 nhà” liên kết chặt chẽ hơn nhằm khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, tập trung nguồn nguyên liệu, gắn sản xuất với tiêu thụ đồng thời chủ động đối phó với thiên tai, biến đổi khí hậu. Riêng trong sản xuất lúa, cần quy hoạch và đầu tư theo vùng nhằm tạo nền tảng để liên kết về giống, qui trình sản xuất, công nghệ sau thu hoạch, tiêu thụ. Hoạt động khác như xay xát, mua, chế biến, xuất khẩu phải gánh vác một số rủi ro trong sản xuất, lưu thông cùng với người trồng lúa và họ phải được tham gia những khâu có lợi hơn khâu sản xuất lúa (quản lý kho dự trữ, thu gom, xay xát, xuất khẩu).
Thế Đạt