Bước chuyển hình thành hệ sinh thái dữ liệu mở

Bộ Khoa học và Công nghệ vừa ban hành Quyết định số 3152/QĐ-BKHCN phê duyệt Chiến lược dữ liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ đến năm 2030.

Chú thích ảnh
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng thăm các công ty công nghệ tại thành phố Đà Nẵng. Ảnh: Khoa Chương/TTXVN

Đây là bước đi cụ thể hóa Luật Dữ liệu năm 2024, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đồng thời triển khai các Nghị quyết số 71/NQ-CP sửa đổi, bổ sung, cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57; Nghị quyết 214/NQ-CP của Chính phủ về Kế hoạch hành động của Chính phủ về thúc đẩy tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện.

Hạ tầng chiến lược của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Quyết định trên xác định rõ, dữ liệu là hạ tầng chiến lược, đóng vai trò then chốt trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Hệ thống dữ liệu ngành khoa học và công nghệ được định vị là nền tảng dẫn dắt hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, đồng thời hỗ trợ hoạch định chính sách, nâng cao hiệu quả đầu tư và năng lực quản lý nhà nước.

Chiến lược nêu rõ yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành dựa trên bằng chứng dữ liệu, tăng cường tích hợp dữ liệu thời gian thực, dữ liệu thống kê, đánh giá, theo dõi, cảnh báo để nâng cao hiệu quả quản trị. Cùng với đó là đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công và thủ tục hành chính toàn trình trên môi trường số, bảo đảm dữ liệu chỉ phải nhập một lần, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp.

Dữ liệu khoa học và công nghệ không chỉ phục vụ quản lý nhà nước mà còn thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, giúp viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp khai thác hiệu quả thông tin. Bộ Khoa học và Công nghệ khuyến khích mô hình hợp tác công - tư trong thu thập, xử lý và chia sẻ dữ liệu, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp cho dữ liệu quốc gia.

Chiến lược cũng nhấn mạnh yêu cầu chuẩn hóa dữ liệu theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, bảo đảm khả năng liên thông với các bộ, ngành, địa phương và tổ chức quốc tế; đồng thời bảo đảm an ninh mạng, chủ quyền dữ liệu quốc gia, tuân thủ các quy định về bảo vệ thông tin cá nhân và dữ liệu nghiên cứu.

Ở tầm nhìn 2030, Chiến lược nêu rõ mục tiêu Bộ Khoa học và Công nghệ trở thành cơ quan tiên phong trong Chính phủ số, dẫn dắt hệ sinh thái dữ liệu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; bảo đảm dữ liệu trở thành nguồn lực chiến lược, được tạo lập, quản lý, chia sẻ, khai thác và sử dụng hiệu quả, an toàn, minh bạch và có trách nhiệm. Dữ liệu khoa học và công nghệ sẽ trở thành tài sản quốc gia có giá trị cao, là nền tảng tri thức số hóa của đất nước, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo dựa trên tri thức, công nghệ và dữ liệu.

Chiến lược đặt mục tiêu tổng quát là phát triển và hoàn thiện hệ sinh thái dữ liệu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số một cách đồng bộ, thống nhất, minh bạch, an toàn và hiệu quả; bảo đảm dữ liệu trở thành hạ tầng thiết yếu, nguồn lực quan trọng phục vụ quản lý nhà nước, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thúc đẩy kinh tế số, xã hội số và chính phủ số.

Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành trung tâm dữ liệu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hàng đầu khu vực Đông Nam Á.

Chiến lược đề ra hàng loạt mục tiêu cụ thể như: Hoàn thiện hành lang pháp lý về dữ liệu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hoàn thành và đưa vào khai thác các nền tảng số quốc gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tích hợp, kết nối 100% dữ liệu từ các bộ, ngành, địa phương qua nền tảng số phục vụ lãnh đạo và quản lý nhà nước; 100% dịch vụ công trực tuyến của Bộ được cung cấp toàn trình, tích hợp đa nền tảng; dữ liệu thay thế hoàn toàn bản giấy trong hồ sơ thủ tục hành chính; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành của Bộ đáp ứng tiêu chí “đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung”, bảo đảm an toàn thông tin cấp độ 3 trở lên, đồng bộ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; số hóa 100% dữ liệu về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thuộc Bộ; đưa vào sử dụng Cổng dữ liệu mở khoa học và công nghệ, công bố tối thiểu 5.000 bộ dữ liệu mở.

Đến năm 2030, 100% cán bộ trong toàn ngành có khả năng sử dụng thành thạo dữ liệu trong hoạch định chính sách, chỉ đạo, điều hành và triển khai công việc.

9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm

Chiến lược xác định 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm. Đó là xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, bao gồm rà soát, sửa đổi, ban hành quy định về thu thập, quản lý, chia sẻ và khai thác dữ liệu; xây dựng danh mục dữ liệu mở, dữ liệu lớn, dữ liệu dùng chung; hình thành “văn hóa dữ liệu” trong toàn ngành; phát triển hạ tầng dữ liệu, bảo đảm liên thông, tránh chồng chéo, lãng phí; kết nối nền tảng điện toán đám mây của Bộ với Chính phủ và doanh nghiệp, hướng tới 100% cơ sở dữ liệu đạt an toàn thông tin cấp độ 3 trở lên trước năm 2028. Cùng với đó, tạo lập và phát triển dữ liệu, bao gồm thu thập, chuẩn hóa dữ liệu về hoạt động khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, năng lượng nguyên tử, chuyển đổi số, thống kê và báo cáo chuyên ngành; phát triển ứng dụng dữ liệu, xây dựng và vận hành Nền tảng số quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia; triển khai đồng bộ Big Data, AI, Blockchain, điện toán đám mây trong khai thác và quản trị dữ liệu.

Một nhiệm vụ khác là bảo đảm an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu cá nhân, thực hiện giải pháp ký số, mã hóa, sao lưu, phục hồi và xác thực người dùng; bảo vệ bí mật nhà nước và chủ quyền dữ liệu; hợp tác, kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị thuộc Bộ, các bộ, ngành, địa phương, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích phát triển các nền tảng chuyển đổi số “Made in Viet Nam”.

Bộ Khoa học và Công nghệ nâng cao chất lượng và quản trị dữ liệu, chuẩn hóa, số hóa, làm sạch dữ liệu, bảo đảm đầy đủ, chính xác, tin cậy và tái sử dụng được; phát triển nguồn nhân lực dữ liệu, đào tạo cán bộ, công chức, viên chức về quản trị và khai thác dữ liệu, xây dựng đội ngũ chuyên gia khoa học dữ liệu chuyên ngành.

Bộ Khoa học và Công nghệ tăng cường hợp tác quốc tế về dữ liệu, tham gia các diễn đàn và sáng kiến quốc tế về dữ liệu khoa học, nghiên cứu mở, dữ liệu mở; tiếp cận, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế nhằm xây dựng hệ thống dữ liệu khoa học quốc gia đạt chuẩn khu vực và quốc tế.

Chiến lược dữ liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ được kỳ vọng sẽ tạo bước chuyển mang tính nền tảng, hình thành hệ sinh thái dữ liệu mở, kết nối toàn diện giữa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia số, đổi mới sáng tạo dựa trên dữ liệu và tri thức.

Thu Phương (TTXVN)
Trung tâm dữ liệu quốc gia số 1 là công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia
Trung tâm dữ liệu quốc gia số 1 là công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 2224/QĐ-TTg về việc đưa công trình Trung tâm dữ liệu quốc gia số 1 vào Danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN