Một cơ sở khai thác dầu của Nga. Ảnh: TASS/TTXVN
Theo trang tin châu Âu EUToday ngày 5/12, dầu thô Urals chủ lực của Nga đang được giao dịch ở mức chiết khấu lớn nhất so với giá chuẩn quốc tế kể từ giai đoạn đầu của cuộc xung đột với Ukraine, làm giảm doanh thu từ dầu mỏ của Moskva ngay khi chi tiêu quân sự và an ninh đạt mức cao nhất kể từ sau thời kỳ Xô Viết.
Dựa trên dữ liệu của Argus được Bloomberg trích dẫn, tính đến giữa tháng 11 vừa qua, giá dầu Urals được chất lên tàu tại cảng Novorossiysk ở Biển Đen giao dịch ở mức khoảng 36,6 USD một thùng, thấp hơn khoảng 23,5 USD/thùng so với giá dầu Brent Biển Bắc - mức chênh lệch lớn nhất kể từ tháng 3/2023.
Các lệnh trừng phạt mới của Mỹ đối với công ty dầu mỏ quốc doanh Rosneft và công ty tư nhân Lukoil đã tiếp tục đẩy giá dầu xuống thấp hơn nữa. Bộ Tài chính Mỹ ước tính giá dầu Urals đã giảm xuống còn khoảng 45,35 USD một thùng vào ngày 12/11 do các khách hàng lớn là Ấn Độ và Trung Quốc trì hoãn hoặc tạm dừng mua hàng.
Cùng lúc đó, Ukraine đã mở một mặt trận mới nhằm vào hoạt động hậu cần dầu mỏ của Nga tại Biển Đen. Thiết bị bay không người lái (UAV) đã tấn công hai tàu chở dầu Kairos và Virat khi chúng đang di chuyển không tải về phía Novorossiysk để bốc dầu thô của Nga, gây ra hỏa hoạn trên tàu. Các cuộc tấn công của UAV và hải quân Ukraine đã nhiều lần làm gián đoạn hoạt động tại các cảng xuất khẩu quanh Novorossiysk và Tuapse, bao gồm cả cảng biển của Liên minh Đường ống Caspi, tạm thời dừng bốc hàng và buộc các tàu chở dầu phải rời khỏi cảng.
Những cuộc tấn công này diễn ra sau khi phương Tây siết chặt các biện pháp nhằm vào đội tàu chở dầu bí mật của Nga. Ví dụ, Australia gần đây đã trừng phạt thêm 45 tàu liên quan đến đội tàu này, nâng tổng số tàu lên 200.
EUToday lưu ý, rủi ro vận hành cao hơn, tuyến đường dài hơn đến châu Á và phí bảo hiểm cao hơn đang làm xói mòn lợi nhuận ròng của Nga - mức giá nhận được tại cảng xuất khẩu sau khi trừ chi phí. Các nhà phân tích lưu ý rằng mặc dù các nhà máy lọc dầu Ấn Độ có thể nhận được dầu Urals giao hàng với giá khoảng 50 USD/thùng, nhưng một phần lợi nhuận ngày càng tăng đó lại dành cho các bên trung gian, chủ tàu và công ty bảo hiểm, khiến Nga chỉ còn khoảng 30 đến dưới 40 USD một thùng tại điểm xuất khẩu - trong một số trường hợp chỉ cao hơn một chút so với chi phí sản xuất trung bình ước tính.
Ấn Độ và Trung Quốc, hiện là những khách hàng chính mua dầu thô vận chuyển bằng đường biển của Nga, đã tận dụng lợi thế này để yêu cầu mức chiết khấu cao hơn. Dữ liệu thương mại và hải quan do các nhà nghiên cứu tổng hợp cho thấy mức chiết khấu của người mua dao động từ khoảng 10 đến dưới 20 USD/thùng trong một số tháng gần đây, so với mức chiết khấu khoảng 12-13 USD trước đợt trừng phạt mới nhất. Đồng thời, lượng dầu thô Ấn Độ mua từ Nga đã giảm so với mức đỉnh điểm trong giai đoạn 2023-2024 do áp lực ngoại giao từ Mỹ và sự cạnh tranh gay gắt hơn từ các loại dầu chua trung bình khác.
Thay đổi giá cả đang tác động trực tiếp đến ngân sách Nga. Thuế dầu khí vẫn chiếm khoảng 1/4 doanh thu liên bang. Kế hoạch tài khóa 2025-2026 của Moskva được lập dựa trên giả định giá dầu Urals trung bình khoảng 56-59 USD một thùng, nhưng giá dầu tính theo đồng rúp đã nhiều lần thấp hơn so với giả định đó. Vào tháng 3, Bộ Tài chính Nga báo cáo rằng giá dầu tính theo đồng rúp trung bình mỗi thùng thấp hơn khoảng 24% so với mức dự kiến ngân sách.
Kết quả là nguồn thu từ nguồn hydrocarbon giảm đáng kể. Trong tháng 10 năm nay, doanh thu ngân sách dầu khí của Nga đã giảm 27% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 888,6 tỷ rúp. Doanh thu trong 10 tháng đầu năm 2025 giảm 21% so với cùng kỳ năm 2024. Ngân hàng Trung ương và Bộ Tài chính Nga đều cảnh báo rằng nếu giá dầu và mức chiết khấu hiện tại vẫn tiếp tục, thu nhập từ dầu khí trong giai đoạn 2025-2026 có thể giảm khoảng 30% so với dự kiến của ngân sách.
Kết quả kinh doanh phản ánh áp lực này. Rosneft, nhà sản xuất dầu mỏ lớn nhất Nga và là một trong những đơn vị đóng thuế quan trọng, báo cáo rằng lợi nhuận ròng của công ty trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 9/2025 đã giảm 70% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 277 tỷ rúp, giảm so với mức 926 tỷ rúp của cùng kỳ năm trước. Công ty cho rằng giá dầu thấp hơn, đồng rúp mạnh hơn, lãi suất cao và chi phí an ninh tăng là những yếu tố chính.
Ở cấp độ vĩ mô, Nga đang ứng phó với tình trạng doanh thu năng lượng sụt giảm bằng cách điều chỉnh khuôn khổ tài khóa và tăng cường sử dụng dự trữ và vay nợ trong nước. Vào tháng 9 vừa qua, Bộ Tài chính Nga đã công bố những thay đổi đối với "quy tắc ngân sách", hạ thấp ngưỡng giá dầu mà trên đó doanh thu vượt mức được giữ lại, nhằm ổn định tài chính và giảm tỷ trọng năng lượng trong tổng thu nhập.
Đồng thời, chi tiêu cho lực lượng vũ trang và an ninh nội địa tiếp tục tăng. Quốc phòng và an ninh dự kiến sẽ chiếm khoảng 38-41% tổng chi tiêu liên bang trong giai đoạn 2025-2026 - khoảng 16,8-17 nghìn tỷ rúp, tương đương khoảng 200 tỷ USD theo tỷ giá hối đoái hiện tại, một tỷ lệ kỷ lục trong thời kỳ hậu Xô Viết. Điều này dẫn đến việc cắt giảm các chương trình xã hội và kinh tế, với tổng tỷ lệ đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.
Nhìn chung, các lệnh trừng phạt đối với các nhà sản xuất và vận tải biển lớn, giá dầu Urals giảm sâu hơn, các cuộc tấn công của Ukraine nhắm vào cơ sở hạ tầng xuất khẩu và tàu chở dầu, cùng với chi phí an ninh và hậu cần cao hơn về mặt cấu trúc, đang làm giảm biên lợi nhuận dầu mỏ của Nga. Ngành này vẫn tiếp tục vận chuyển khối lượng lớn, nhưng với giá ròng thấp hơn và rủi ro vận hành gia tăng.
Các nhà phân tích thường cho rằng mối đe dọa trước mắt không phải là việc xuất khẩu đột ngột dừng lại mà là sự xói mòn dần dần không gian tài khóa. Nếu giá dầu và chiết khấu vẫn ở mức hiện tại trong khi chi tiêu liên quan đến chiến sự vẫn ở mức cao, Nga có thể sẽ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách dai dẳng, phụ thuộc nhiều hơn vào vay nợ trong nước và rút dự trữ, cùng với áp lực phải điều chỉnh thêm cơ cấu thuế và chi tiêu. Tính bền vững của mô hình kinh tế thời chiến của Moskva sẽ phụ thuộc vào việc sự kết hợp này kéo dài được bao lâu – và lượng dầu mà người mua toàn cầu có thể hoặc sẵn sàng mua.