Các bị cáo trong vụ án đã bàn bạc, hợp thức hợp đồng tạm nhập, tái xuất, nhằm chuyển tiền trái phép hàng chục nghìn tỷ đồng từ Việt Nam ra nước ngoài.
Theo đó, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Nguyệt (sinh năm 1985, ở quận Tây Hồ, Hà Nội) mức án 7 năm 6 tháng về tội “Vận chuyển tiền trái phép qua biên giới”. Bị cáo Phạm Anh Tuấn (sinh năm 1984, chồng của bị cáo Nguyệt) lĩnh 5 năm tù về cùng tội danh này. Liên quan đến vụ án, 10 bị cáo còn lại bị tuyên phạt từ 30 tháng tù treo đến 4 năm tù.
Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Thị Nguyệt bị xác định là người có vai trò cao nhất, vận chuyển trái phép ra nước ngoài hơn 30.498 tỷ đồng, thu lời bất chính hơn 30,4 tỷ đồng. Bị cáo Nguyệt là người chủ mưu, khởi xướng, trực tiếp điều hành đường dây vận chuyển tiền qua biên giới.
Bản án sơ thẩm nhận định, hành vi phạm tội của các bị cáo rất nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, xâm phạm tính ổn định phát triển của nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho Nhà nước, gây hoang mang, bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để cảnh cáo, răn đe và phòng ngừa chung.
Chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, hưởng lợi 0,1%
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, từ năm 2016, nắm được nhu cầu thuê chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, Nguyệt mua hồ sơ tạm nhập, tái xuất của Phạm Hữu Thuật (sinh năm 1981, ở Quảng Ninh) để hợp thức việc chuyển tiền trái phép ra nước ngoài thông qua pháp nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ xuất nhập khẩu Đại Phát và Công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu Đại Phát.
Thuật và Nguyệt thỏa thuận, mỗi bộ hồ sơ tạm nhập, tái xuất để chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, Thuật bán cho Nguyệt với giá từ 30-40 triệu đồng. Nguyệt gửi thông tin công ty nhận tiền, mẫu dấu, chữ ký giám đốc công ty để hoàn thiện hợp đồng tạm nhập hàng hóa là IC điều khiển, làm thủ tục kê khai hải quan. Thuật và Nguyệt cùng nhau góp tiền mua IC điều khiển tại Trung Quốc của một người Trung Quốc có tên A Vỹ để có hàng hóa làm thủ tục tạm nhập qua cửa khẩu Móng Cái rồi sau đó tái xuất sang Trung Quốc qua các cửa khẩu do A Vỹ chỉ định để chính A Vỹ nhận lại những kiện hàng này rồi chuyển lại cho Thuật.
Thuật mở 49 tờ khai tạm nhập tái xuất hàng hóa của Công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu Đại Phát với tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu là hơn 52,3 triệu USD, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu là hơn 52,3 triệu USD. Thuật sử dụng công ty này để thanh toán quốc tế 48/49 hợp đồng tại 3 ngân hàng, chuyển ra nước ngoài hơn 2.513 tỷ đồng.
Cáo buộc cho rằng, ngoài bán hồ sơ của 2 công ty Đại Phát cho Nguyệt, Thuật còn sử dụng pháp nhân Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên thương mại và du lịch xuất nhập khẩu BDA do Thuật thành lập, nhờ người đứng tên để hợp thức hợp đồng tạm nhập, tái xuất là IC điện tử làm hồ sơ thanh toán quốc tế, nhằm chuyển tiền trái phép từ Việt Nam ra nước ngoài.
Trong vụ án này, Thuật là người chịu trách nhiệm làm thủ tục tái xuất hàng hóa sang Trung Quốc qua cửa khẩu Móng Cái, Quảng Ninh. Mỗi lượt làm thủ tục, Thuật khai được hưởng lợi 10 triệu đồng.
Kết quả điều tra xác định, thông qua các công ty trên, Thuật và Nguyệt đã chuyển hơn 3.875 tỷ đồng ra nước ngoài và hưởng lợi 152 triệu đồng.
Sau khi nắm bắt được thủ đoạn và cách thức chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, năm 2017, Nguyệt bàn với chồng là Phạm Anh Tuấn thành lập 8 công ty nhằm sử dụng pháp nhân của các công ty này lập hồ sơ tạm nhập tái xuất khống để chuyển tiền ra nước ngoài. Nguyệt và các đồng phạm đã sử dụng các pháp nhân được thành lập ký hợp đồng kinh tế khống mua hàng hóa là IC điện thoại thông minh của các công ty tại Singapore, rồi xuất bán cho các công ty tại Trung Quốc theo hình thức tạm nhập tái xuất để có tờ khai hải quan.
Từ đó, các bị cáo lập hồ sơ chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, hưởng lợi 0,1% tổng số tiền trên mỗi giao dịch chuyển tiền. Trong đó, Tuấn đồng phạm với Nguyệt vận chuyển hơn 6.788 tỷ đồng và hưởng lợi hơn 6,7 tỷ đồng.
Để có hàng hóa hợp thức các hợp đồng kinh tế mua hàng hóa tạm nhập, tái xuất, Nguyệt chỉ đạo em ruột là Nguyễn Văn Thắng mua các linh kiện điện tử (IC) từ Trung Quốc. Thắng bị xác định là đồng phạm với Nguyệt vận chuyển hơn 30.498 tỷ đồng ra nước ngoài, hưởng lợi 410 triệu đồng.
Kết quả điều tra xác định, tổng số tiền Nguyệt chuyển trái phép ra nước ngoài là hơn 30.498 tỷ đồng, thu lời bất chính hơn 30,4 tỷ đồng.
Tiếp tay thực hiện hành vi phạm tội
Liên quan đến vụ án, Nguyệt và chồng là Phạm Anh Tuấn còn liên hệ với một nhân viên ngân hàng để thực hiện chuyển tiền dưới hình thức thanh toán quốc tế. Cơ quan điều tra, Công an thành phố Hà Nội đã tách tài liệu liên quan đến các đối tượng là người có liên quan đến việc chuyển tiền ra nước ngoài để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
Trong số này có Phạm Thị Minh Ngân, nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MBbank) chi nhánh Móng Cái. Cáo trạng xác định, Ngân được giao thực hiện thanh toán quốc tế cho 6 công ty do Nguyệt thành lập. Tuy nhiên, do Ngân là nhân viên ngân hàng MBbank, thẩm quyền xử lý hành vi của Ngân thuộc Cục điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, nên Cơ quan điều tra, Công an thành phố Hà Nội đã tách tài liệu liên quan đến hành vi của Ngân chuyển đến Cục Điều tra hình sự, Bộ Quốc phòng giải quyết theo thẩm quyền.
Ngoài ra, 2 nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín (Sacombank) chi nhánh Móng Cái là Hoàng Thị Phương Anh và Nguyễn Thu Hoa là người đã chuyển tiền cho Nguyệt. Cơ quan điều tra xác định Phương Anh và Hoa không biết việc Nguyệt chuyển tiền ra nước ngoài là trái phép nên không xử lý hình sự.