Ngày nay, các nước đang phát triển đang dẫn dắt sự hồi phục toàn cầu ở một mức độ chưa từng có, thay vì phải phụ thuộc vào sự chỉ đạo kinh tế của Mỹ như trước đây. Sự thay đổi trật tự kinh tế thế giới này đã diễn ra trong 30 năm. Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, phần đóng góp của các nước đang phát triển trong tổng sản lượng kinh tế toàn cầu đã tăng từ 18% trong năm 1980 lên 26% vào năm 2010. Do đó, sự tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi hiện nay đã có những ảnh hưởng rộng hơn tới bộ mặt nền kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng nhanh ở những nền kinh tế mới nổi đã giúp hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo, đồng thời tạo ra những thị trường tiêu dùng vô cùng rộng lớn cho các mặt hàng và dịch vụ của Mỹ.
Tuy nhiên, chuyên gia kinh tế từng đạt giải Nobel của trường Đại học Côlômbia cảnh báo, "thế giới tăng trưởng hai pha cũng sẽ đặt ra những nguy cơ không thể xem thường". Ông và nhiều người khác lo ngại rằng, nguồn tiền chảy vào các nước đang phát triển quá lớn đang đẩy giá các loại mặt hàng lên cao, đồng thời sẽ thổi phồng những quả bong bóng nguy hiểm trong lĩnh vực giá nhà và giá cổ phiếu trên các thị trường các nước mới nổi.
Tốc độ tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế đang phát triển đang thu hút việc làm và đầu tư từ Mỹ cũng như nhiều quốc gia giàu có khác, đồng thời thổi bùng lên những tranh chấp quốc tế xung quanh lĩnh vực thương mại và tiền tệ. Tăng trưởng nhanh cũng kéo theo tình trạng lạm phát tại các nước đang nổi, với việc giá tiêu dùng tại Áchentina, Ấn Độ và Nga đã tăng đến mức đỉnh điểm trong năm 2010.
Tỷ lệ thất nghiệp cao đang là vấn đề rất tệ hại tại các quốc gia giàu có. Cuối năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp tại Tây Ban Nha đã lên tới hơn 20%, ở châu Âu là 9,6% và ở Mỹ là 9,4% (tỷ lệ này tại Mỹ đã giảm xuống còn 9% vào tháng 1/2011 và 8,9% vào tháng 2/2011). Ngược lại, tỷ lệ này ở Braxin là 5,3%.
Trước đây, các nước đang phát triển thường bị phụ thuộc vào các nước mạnh, đặc biệt là Mỹ, để tạo ra tăng trưởng toàn cầu, theo đó sẽ đem lại lợi ích cho các nước này khi các nước giàu mua các sản phẩm xuất khẩu của những nước nghèo hơn. Do đó, một khi các nước giàu bị mất ổn định thì các nước nghèo hơn cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Nhưng cuộc Đại suy thoái đã đảo ngược mối quan hệ trước đây. Các nền kinh tế mới nổi đã khéo léo tránh được cuộc khủng hoảng nhà ở đã làm đông cứng thị trường tín dụng tại Mỹ và châu Âu, đồng thời đẩy các quốc gia giàu vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ những năm 1930.
Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển vẫn tiếp tục tăng trưởng, dù chậm hơn so với trước đây. Họ không phải bảo lãnh cho các ngân hàng của mình, hứng chịu tỷ lệ thất nghiệp cao hay tăng trưởng đình đốn - những hệ quả thường thấy của các khủng hoảng tài chính.
Năm 2010, tăng trưởng của các nước đang phát triển là 7,1% trong khi của các nước giàu là 3%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán trong năm nay, các nước đang phát triển sẽ tiến nhanh hơn các nước giàu 2,5-6,5%.
Các quốc gia giàu vẫn tiếp tục bị tụt lại do những thiệt hại mà khủng hoảng tài chính gây ra. Các ngân hàng vẫn phải tiếp tục xóa các khoản nợ khó đòi. Thâm hụt ngân sách chính phủ ngày càng lớn - hệ quả của việc nguồn thu thuế giảm sút, chi phí bảo lãnh hệ thống ngân hàng, giá các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tăng, và nhu cầu kích thích nền kinh tế. Người tiêu dùng Mỹ vẫn đang tiếp tục phải trang trải cho các khoản nợ chồng chất vay từ thời kỳ chi tiêu lu bù hồi giữa những năm 2000. Hiện gần 14 triệu người Mỹ bị thất nghiệp, trong đó 1,8 triệu thất nghiệp đã 2 năm nay, hoặc thậm chí lâu hơn.
Không phải chịu gánh nặng do khủng hoảng tài chính, Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều quốc gia đang phát triển khác tiếp tục duy trì mức tăng trưởng nhanh nhờ tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp. Trên thực tế, các nước này đang tự tạo ra mức tăng trưởng cho mình thay vì phải dựa vào việc xuất khẩu hàng hóa cho các nước giàu. Năm 2010, nhu cầu trong nước, bao gồm cả đầu tư kinh doanh, các chương trình của chính phủ và mức chi tiêu của người tiêu dùng, chiếm tới 80% tăng trưởng của Trung Quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà tăng trưởng nhanh đem lại, nó cũng đang gây ra nhiều vấn đề cho Trung Quốc và các quốc gia đang phát triển khác. Nhu cầu về các mặt hàng như dầu, ngũ cốc, thép tăng lên đang đẩy giá hàng hóa lên cao hơn bao giờ hết. Lạm phát lên tới gần 5% tại Trung Quốc, hơn 9% tại Ấn Độ, và gần 11% tại Áchentina. Tại Mỹ, lạm phát chỉ có 1,9% trong năm 2010.
Khi các nhà đầu tư đổ tiền vào cổ phiếu và bất động sản của khu vực châu Á, họ có nguy cơ tạo ra những bong bóng tài sản vô cùng nguy hiểm. Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác có thể tránh được lạm phát bằng cách để đồng tiền của nước mình tăng giá thật nhanh nhằm kìm giá các mặt hàng nhập khẩu. Song họ lại không muốn làm như vậy vì đồng tiền mạnh hơn sẽ khiến các mặt hàng xuất khẩu của họ trở nên đắt đỏ và giảm tính cạnh tranh ở các nước khác.
TTK (Theo AP)