Dịp Thông tấn xã Giải phóng vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân vào năm 2020, tôi tìm đọc lại những bài viết của các thế hệ đàn anh đi trước, từng có thời gian sống, làm việc ở TTXGP trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tôi mới biết anh có một cuộc sống phong phú, một quá trình công tác rất gian khổ, rất dũng cảm và tự hào.
Nếu nói một cách tóm tắt, quá trình công tác của anh trải qua suốt 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và suốt 15 năm xây dưng và trưởng thành của TTXGP.
Ông Tư Thiều (giữa) cùng các Hội viên Hội cựu chiến binh của TTXVN.
Anh Tư Thiều sinh ra và lớn lên ở huyện Củ Chi đất thép thành đồng, trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Cha anh, người chiến sĩ “mùa thu" nguyên là Xã đội trưởng xã An Nhơn Tây đã mất vì bạo bệnh ngay khi Hiệp định Geneve được ký kết. Hôm xuống nhà anh, tôi lại phát hiện thêm một điều lý thú: Tại nơi nhà anh khi xưa là nơi thành lập lực lượng vũ trang tỉnh Gia Định và cũng căn nhà ấy đã che chở, nuôi dưỡng nhiều cán bộ cách mạng như các đồng chí Trần Bạch Đằng, Huỳnh Văn Bánh… trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Hiện nhà anh đã trở thành địa chỉ đỏ, nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ sau này.
Nối tiếp truyền thống cách mạng của mảnh đất Củ Chi anh hùng và của người cha, cả ba anh em anh đều lên đường tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hai người anh và em của anh công tác tại Y4 (mật danh của đặc khu Sài Gòn - Gia Định). Sau giải phóng, họ đều trở thành những cán bộ chủ chốt của Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Ba Lự (Đoàn Văn Phán), người anh thứ ba của Tư Thiều là Bí thư Quận ủy Quận 11 (cũ), còn bà Năm Thu (Đoàn Thị Thu), người em thứ năm của Tư Thiều là Đại tá, Trưởng công an quận Tân Bình (cũ), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Còn bản thân Tư Thiều, trước khi gia nhập đội quân Tuyên huấn và về mái nhà Thông tấn, trong khoảng thời gian từ năm 1955 - 1959, anh công tác tại địa phương, là đội viên đội du kích bí mật, là Bí thư Đoàn xã An Nhơn Tây, hoạt động công khai trong vỏ bọc là một người nông dân hiền lành, chất phác.
Tôi hỏi anh: “Cơ duyên nào đưa anh đến với ngành Tuyên huấn và sau đó là TTXGP”?. Trầm ngâm một chút như tái hiện lại những kỷ niệm xa cũ, anh chậm rãi trả lời: "Tất cả đều đến một cách ngẫu nhiên, không sắp đặt, không có kế hoạch hay dự kiến nào".
Rồi anh kể: "Vào những năm 1958 - 1959, chính quyền Ngô Đình Diệm lê máy chém khắp nơi, tăng cường lùng sục, bắt bớ, giết hại những người kháng chiến cũ. Tại xã tôi, chúng đóng một đồn do tên On làm đồn trưởng. Tên này rất hống hách, rất tàn ác, hàng ngày hắn dẫn lính vào các xóm ấp đe doạ, truy bức, khủng bố; bắt đàn ông, thanh niên đi làm việc khổ sai, làm đường, đào hầm hào cho chúng. Ban đêm hắn cho lính đi tuần, đi phục kích, đi dò xét nhằm phát hiện các gia đình cơ sở cách mạng và tìm bắt cán bộ ta. Cấp ủy xã chủ trương phải tiêu diệt tên ác ôn nguy hiểm này. Tôi xin với cấp ủy được thi hành bản án tiêu diệt tên này. Tuy vậy, việc giết tên On rất khó khăn và nguy hiểm, bởi tên này luôn mang một khẩu súng ngắn bên người. Khi có việc ra ngoài, hắn bao giờ cũng dắt theo ba, bốn tên lính, đầy đủ súng ống đi kèm. Nhưng rồi cũng có lúc hắn sơ suất mất cảnh giác. Một buổi chiều, sau buổi đi làm đường về, tôi vác cuốc dự định thăm qua đám ruộng của gia đình. Bất ngờ tôi nghe tiếng hỏi từ phía sau:
- Thiều mày đi đâu đấy?.
Tôi ngoảnh lại nhận ra tên On đang đi xe đạp một mình ngay phía sau lưng.
- Thưa ông tôi đi thăm đồng.
Vừa trả lời hắn, tôi vừa nghĩ nhanh: Cơ hội ngàn năm có một để diệt tên ác ôn đây rồi. Ngay lập tức tôi xoay người vung chiếc cuốc đang vác trên vai bổ một nhát thật mạnh vào đầu tên ác ôn.
Tên On bị bất ngờ, lại đang ngồi trên xe đạp, nhưng hắn phản xạ cực kỳ mau lẹ. Hắn nghiêng đầu né tránh nên nhát cuốc chỉ trúng vào vai. Tên On ngã xuống đường, tay phải hắn sờ nhanh vào bao súng dưới thắt lưng. Trong giờ phút hiểm nguy này chậm là chết, dù chỉ một giây. Tôi đã nhanh hơn hắn. Tôi áp sát, giật khẩu súng hắn vừa rút ra khỏi bao, quay nòng súng bắn ngay một phát trúng ngay ngực hắn. Tên ác ôn đổ gục xuống đường. Tôi nhanh chóng rút chạy ngay vào rừng. Cũng ngay đêm đó, để tránh sự truy lùng của kẻ thù, cấp trên rút tôi ngay khỏi địa bàn. Sau đó tôi về công tác tại an ninh Y4, với nhiệm vụ làm giao liên cho cấp ủy".
- Vậy đến khi nào anh về Ban Tuyên huấn R (mật danh của Trung ương cục miền Nam)?, tôi hỏi.
- Từ từ rồi tôi kể tiếp, anh trả lời.
Anh lại kể: "Đầu năm 1960, sau đồng khởi và chiến thắng Tua Hai, đặc biệt là sau Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, tình hình cách mạng miền Nam có bước chuyển biến lớn. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, Ban Tuyên huấn Xứ ủy do đồng chí Trần Bạch Đằng phụ trách đã về Củ Chi để tuyển quân nhằm tăng cường lực lượng, từng bước hình thành các đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó có các đơn vị thông tin như TTXGP. Tôi và 6 anh em khác có trình độ văn hoá tương đối được chọn về Tuyên huấn R đợt này. Căn cứ của Ban Tuyên huấn Xứ ủy đóng tại Dương Minh Châu (Tây Ninh).
Sau khi về đến căn cứ, đồng chí Trần Bạch Đằng giao cho đồng chí Ba Đỗ (Nguyễn Văn Hạng, sau này là Phó Tổng Giám đốc TTXVN) mở lớp đào tạo điện báo viên. Tôi là một trong số anh em từ Củ Chi lên được cử đi học lớp điện báo này. Lúc đó, phương tiện, máy móc thiết bị để học rất khó khăn, thiếu thốn. Cả Ban chỉ có duy nhất một máy thu phát sóng 15 oát, để liên lạc về Trung ương và với các địa phương. Vì vậy, chiếc máy được giữ gìn và bảo quản một cách chặt chẽ, nghiêm ngặt, không thể mang ra làm dụng cụ giảng dạy được.
Để có ma-níp học morse, anh em chúng tôi có sáng kiến dùng cây đẽo giống hình ma-níp, sau đó sử dụng dây cao su thay lò so thép đàn hồi, đóng đinh hai đầu, để khi gõ phát ra tiếng lạch cạch của tín hiệu. Cứ như vậy, lớp học kéo dài hơn 3 tháng, chúng tôi đã trở thành những điện báo viên thực thụ. Khi TTXGP ra đời ngày 12/10/1960, chúng tôi là những điện báo viên đầu tiên, cũng là một trong những cán bộ, nhân viên đầu tiên của TTXGP".
Ở căn cứ Dương Minh Châu được hơn một năm thì địch bắt đầu tung quân và thám báo lùng sục, càn quét, đánh phá vùng căn cứ kháng chiến. Đầu năm 1961 TTXGP và các cơ quan xứ ủy phải di chuyển về căn cứ Mã Đà, vùng chiến khu D (Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Chặng đường hành quân chuyển cứ cực kỳ gian nan, vất vả; đi bộ đường dài, lội suối băng rừng, lại phải mang vác máy móc, thiết bị, nhưng không ai nản lòng. Tư Thiều to lớn, sức khoẻ tốt nên nhận trách nhiệm đeo chiếc máy 15 oát cồng kềnh, nặng nề. Dù vậy, trên đường hành quân, đến giờ phát sóng liên lạc với Hà Nội hay các địa phương, anh em lại hạ máy xuống, giăng ăng-ten lên cây, các phiên máy vẫn thực hiện đầy đủ, không lúc nào để làn sóng điện bị gián đoạn.
Thời gian ở căn cứ Mã Đà (chiến khu D) chỉ chưa đến một năm, nhưng lại là giai đoạn thử thách cam go đối với Tư Thiều và các đồng đội của anh, bởi đường tiếp tế lương thực rất khó khăn, vất vả. Mỗi lần đi tải lương thực phải tổ chức thành những đội vũ trang để chống trả các cuộc càn quét, phục kích của địch. Mỗi hạt gạo, cân muối về đến căn cứ đều thấm đẫm mồ hôi và máu của anh em đồng đội. Ở căn cứ hiếm khi anh em được ăn bữa cơm no. Bữa ăn hàng ngày chủ yếu là củ chụp với măng rừng. Ở trong rừng sâu khí hậu cũng rất khắc nghiệt, mặt đất thường xuyên ẩm ướt, nhất là về mùa mưa muỗi, vắt nhiều vô kể. Dù cuộc sông gian khổ, nguy hiểm như vậy, nhưng mọi người vẫn lạc quan yêu đời, không ai tỏ ra nản chí.
Sang đầu năm 1962, cơ quan Xứ ủy lại chuyển về căn cứ Dương Minh Châu. Từ đó đến ngày giải phóng 30/4/1975, TTXGP phải chuyển cứ thêm hàng chục lần. Đặc biệt là giai đoạn từ năm 1965 đến sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân và những năm 1970 - 1972, địch liên tiếp mở các cuộc tấn công đánh phá vùng căn cứ và mở rộng chiến tranh Đông Dương, căn cứ của TTXGP phải nhiều lần di chuyển, trong đó có hai lần phải dời cứ sang Campuchia, đến năm 1973 mới trở lại Tây Ninh.
Mỗi lần địch càn vào căn cứ, cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên, công nhân viên TTXGP lại cầm súng chiến đấu bảo vệ căn cứ, phương tiện, thiết bị, đồng thời đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt với Hà Nội và các địa phương. Trong các lần chuyển cứ và các cuộc chiến đấu, cũng như việc giữ cho làn sóng điện không bao giờ tắt đó, Tư Thiều tự hào mình luôn có mặt, góp một phần nhỏ vào chiến công chung của đơn vị.
Ông Tư Thiều giới thiệu tấm bảng ghi lại di tích lịch sử "Điểm thành lập lực lượng vũ trang đầu tiên tỉnh Gia Định" nằm trong khuôn viên nhà mình.
Sau trận càn Junction City của Mỹ năm 1967, Tư Thiều được điều động và phân công nhiệm vụ mới là Phó Văn phòng TTXGP phụ trách công tác tiếp liệu, hậu cần. Dù được lên chức, nhưng Tư Thiều thấy lo nhiều hơn vui, bởi anh hiểu rằng từ nay cái ăn, cái mặc, cuộc sống của biết bao con người và mọi hoạt động của cơ quan được đặt lên vai anh.
Sau cái ngày “lên chức" ấy, mọi người hầu như không thấy bóng dáng Tư Thiều xuất hiện ở cơ quan. Cũng thời gian ấy, tại một số cửa khẩu vùng địch kiểm soát lại xuất hiện một nhóm người lạ đi trên một chiếc xuồng gắn máy đuôi tôm thường xuyên móc nối với các đầu nậu buôn bán lương thực, thực phẩm, xăng dầu, phụ tùng máy móc, hàng nhu yếu phẩm, thuốc tây chữa bệnh, hàng tạp hoá, giấy bút, pin đèn, vải vóc… và luôn mua với số lượng lớn. Có ai thắc mắc, dò hỏi, họ chỉ nói rằng họ là những người đi buôn, mua qua bán lại để kiếm lời.
Mua được hàng rồi, việc vận chuyển về cơ quan cũng rất vất vả, nguy hiểm. Phương tiện và con đường duy nhất để chuyển hàng về căn cứ là dùng xuồng dọc theo sông Vàm Cỏ Đông. Tuy nhiên, nhiều đoạn sông lại nằm trong vùng tranh chấp giữa ta và địch. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho người và hàng hoá, ban ngày Tư Thiều cho anh em giấu xuồng, giấu hàng và nghỉ ngơi, chờ đến đêm mới lại bốc hàng lên đi tiếp. Cứ như vậy trong vai người đi buôn, Tư Thiều và anh em trong nhóm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đảm bảo hậu cần phục vụ đời sống và công tác của cơ quan cho đến ngày giải phóng.
Sau ngày giải phóng 30/4/1975, cơ quan TTXGP chuyển về Sài Gòn và sát nhập với Việt Nam Thông tấn xã. Từ đó cho đến lúc nghỉ hưu vào năm 1998, Tư Thiều trải qua nhiều công việc khác nhau, nhưng có hai giai đoạn anh ghi dấu ấn đậm nét. Giai đoạn thứ nhất là khoảng thời gian cuối những năm 1970 đầu những năm 1980, cả nước thiếu lương thực gay gắt, mọi người phải ăn độn khoai, sắn thay cơm. Trong khi đó, nhiều diện tích đồng ruộng còn bỏ hoang hoá do hậu quả chiến tranh để lại. Hưởng ứng phong trào khai hoang, phục hoá, tăng gia sản xuất, tự túc lương thực của Đảng, Nhà nước, TTXVN đã tổ chức nhiều đội sản xuất đi về các tỉnh Bình Dương, Cà Mau, Đồng Tháp khai phá đất hoang trồng khoai, sắn, lúa. Tư Thiều lúc đó là Trưởng phòng Hành chính, quản trị cơ quan TTXVN tại Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng anh em trong cơ quan về Cà Mau trồng lúa. Vào vụ gieo cấy hay mùa thu hoạch, Tư Thiều cả ngày quần quật ngoài đồng, hệt như người nông dân thực thụ. Số lúa thu được từ nguồn sản xuất tự túc thật sự chưa nhiều và hiệu quả kinh tế không cao, nhưng khi nhận cân gạo, củ khoai cả cơ quan ai cũng vui, vì đó là kết quả của bao nhiêu ngày lao động vất vả.
Dấu ấn thứ hai của Tư Thiều là giai đoạn anh làm Trưởng phòng Phát hành, khoảng cuối những năm 1980 đầu những năm 1990. Đây là thời kỳ thị trường báo chí tại Thành phố Hồ Chí Minh và trên cả nước có sự bùng nổ, cạnh tranh quyết liệt. Phát hành báo chí là lĩnh vực mới, Tư Thiều chưa từng được đào tạo về lĩnh vực này. Trong suốt mấy năm đảm nhận công việc, anh vừa làm, vừa học từ thực tiễn và từ bạn bè. Với bản tính cần cù, chịu khó và lối sống giản dị, chân thật, nghĩa tình, anh được mọi người yêu quí. Mạng lưới phát hành các ấn phẩm của ngành cứ thế từng bước được mở rộng, đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc và giúp cơ quan có thêm nguồn thu để tiếp tục đầu tư, phát triển.
Năm 1998, sau hơn 40 năm lao động và cống hiến, Tư Thiều được nghỉ hưu, nhưng anh không chọn ở lại thành phố mà quyết định trở về quê, sống tại ngôi nhà xưa, nơi anh sinh ra và lớn lên. Anh cũng không chọn cho mình cuộc sống an nhàn, vui hưởng tuổi già.
Về địa phương, anh tích cực tham gia các hoạt động của chi bộ và các phong trào của địa phương. Đối với các cuộc vận động ủng hộ đồng bào các vùng bị thiên tai bão lũ, quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ khuyến học… anh đều hưởng ứng nhiệt tình. Ngoài những đóng góp chung, anh còn có những việc làm đáng trân trọng và cảm phục là tự mình bỏ tiền riêng và vận động thêm kinh phí từ họ hàng, bà con để xây nhà tình nghĩa, nhà tình thương cho các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
Từ ngày nghỉ hưu đến nay, anh đã đóng góp và vận động người thân xây dựng được 16 căn nhà tình nghĩa, nhà tình thương với số tiền lên đến hàng tỷ đồng. Việc làm nghĩa tình của anh không chỉ dừng lại ở đó, mà còn mở rộng sang lĩnh vực giáo dục, đến việc học tập của các em nhỏ tại địa phương.
Những phút giây thư giãn của ông Tư Thiều.
Bền bỉ suốt 25 năm qua, cứ đến mùa tựu trường, anh lại bỏ tiền mua khoảng 2.000 cuốn tập vở tặng cho các em học sinh hiếu học, học giỏi và có hoàn cảnh khó khăn ở xã. Điều mà anh lo lắng nhất là sắp nhỏ vì khó khăn hay một lý do nào đó mà không được đến trường, ảnh hưởng đến tương lai của chúng. Ở Đảng bộ xã An Nhơn Tây, anh là đảng viên cao tuổi đời khi còn một năm nữa là đến tuổi 90 và là đảng viên lão thành với 65 năm tuổi Đảng. Anh cũng là người có quá trình tham gia cách mạng lâu dài, đi suốt chiều dài 20 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Với những cống hiến to lớn của mình, anh đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quí: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất và nhiều Bằng khen, Giấy khen… Nhưng ở chi bộ, ở xóm ấp, anh luôn là người đảng viên, người công dân gương mẫu, khiêm tốn cả trong cuộc sống, trong sinh hoạt đảng và hoạt động xã hội.
Anh bảo khi nào còn sức khoẻ, anh sẽ tiếp tục những công việc đáng làm mà anh đang thực hiện. Anh luôn tâm niệm và tự nhủ rằng mình được sống đến hôm nay, được hưởng cuộc sống hạnh phúc trong hoà bình là nhờ sự nuôi dưỡng, che chở, đùm bọc của nhân dân; sự hy sinh của biết bao anh hùng, liệt sĩ. Anh chỉ ước mình có sức khoẻ và có nhiều thời gian hơn nữa để tiếp tục làm việc nghĩa, việc thiện, đóng góp phần nhỏ bé cho xã hội, xứng đáng là người con của mảnh đất Củ Chi anh hùng.