Giáo sư Reena Marwah trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN. Ảnh: Quang Trung/PV TTXVN tại Ấn Độ
Cuộc phỏng vấn tập trung đánh giá những động lực nổi bật của nền kinh tế Việt Nam, khả năng hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao, cũng như vai trò của ổn định chính trị và các chính sách xã hội trong việc bảo đảm phát triển bền vững.
Theo Giáo sư Reena Marwah, Việt Nam đang nổi lên như một điểm sáng tăng trưởng không chỉ ở Đông Nam Á mà trên phạm vi toàn châu Á. Với mục tiêu đạt mức tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khoảng 8% trong năm 2025, nền kinh tế Việt Nam cho thấy một quỹ đạo phát triển ấn tượng, được hỗ trợ bởi nhiều động lực đồng thời.
Yếu tố nổi bật đầu tiên là xuất khẩu. Bất chấp các rào cản thuế quan và môi trường thương mại toàn cầu nhiều biến động, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng mạnh, ước đạt khoảng 18 - 20%. Đáng chú ý, Việt Nam không còn chỉ là trung tâm sản xuất hàng điện tử giá trị thấp, mà đã vươn lên trong chuỗi giá trị với các sản phẩm điện tử có hàm lượng công nghệ cao.
Việc Apple và các tập đoàn lớn mở rộng sản xuất tại Việt Nam đã góp phần đưa nước này trở thành một trong những trung tâm xuất khẩu điện tử quan trọng vào thị trường Mỹ - yếu tố đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng năm 2025.
Bên cạnh xuất khẩu, du lịch là động lực lớn thứ hai. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh, không chỉ từ Trung Quốc mà còn từ nhiều khu vực khác, trong đó có Ấn Độ. Theo Giáo sư Reena Marwah, nếu chỉ xét tiêu dùng nội địa thuần túy, mức tăng hiện vào khoảng 5%. Tuy nhiên, nhờ dòng chi tiêu từ du lịch, tổng mức tiêu dùng thực tế đã được đẩy lên gần 10%, qua đó tạo lực đỡ quan trọng cho tăng trưởng.
Ngoài ra, đầu tư - đặc biệt là đầu tư công, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ổn định và hoạt động xây dựng sôi động - tiếp tục đóng vai trò nền tảng. Việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp tỉnh, đưa tổng số tỉnh, thành xuống còn 34, cũng được nhìn nhận như một yếu tố giúp nâng cao hiệu quả quản trị, tạo thêm dư địa cho đầu tư hạ tầng và phát triển dài hạn.
Giáo sư Reena Marwah trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN. Ảnh: Quang Trung/PV TTXVN tại Ấn Độ
Trong giai đoạn 2026-2030, Việt Nam đặt mục tiêu tham vọng hơn: tăng trưởng 2 con số. Theo Giáo sư Reena Marwah, đây là mục tiêu có cơ sở, song đòi hỏi nỗ lực chính sách nhất quán và những cải thiện mang tính chiều sâu.
Lợi thế lớn nhất của Việt Nam vẫn là hội nhập kinh tế sâu rộng. Cơ cấu xuất khẩu đang dịch chuyển mạnh sang hàng chế tạo và điện tử giá trị cao, trong khi một số đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong lĩnh vực dệt may lại đang đối mặt với bất ổn chính trị và gián đoạn sản xuất. Trong bối cảnh đó, Việt Nam nổi lên như một điểm đến an toàn, với tỷ lệ thất nghiệp thấp và nhu cầu ngày càng cao về lao động có tay nghề.
Xu hướng tái định vị chuỗi cung ứng tiếp tục mang lại “lực đẩy” cho Việt Nam. Dòng vốn FDI ổn định, kết hợp với mô hình hợp tác công - tư và quản lý tài khóa chặt chẽ, giúp Việt Nam duy trì tăng trưởng cao trong khi vẫn kiểm soát được lạm phát.
Tuy nhiên, Giáo sư Reena Marwah cho rằng, để đạt và duy trì mức tăng trưởng trên 10%, Việt Nam cần chú trọng hơn đến kích thích tiêu dùng trong nước. Sau đại dịch COVID-19, xu hướng tiết kiệm gia tăng đã làm tiêu dùng nội địa phục hồi chậm. Bài toán đặt ra là chuyển hóa lượng tiết kiệm này thành tiêu dùng và đầu tư hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc tăng cường dự trữ ngoại hối cũng là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài.
Theo Giáo sư Reena Marwah, ổn định chính trị, như kinh nghiệm quốc tế cho thấy là điều kiện mang tính quyết định đối với dòng vốn FDI. Thực tế tại Bangladesh, cũng như ở một số quốc gia châu Âu và Đông Nam Á, cho thấy ở bất kỳ nơi nào môi trường chính trị thiếu ổn định, FDI đều có xu hướng chững lại hoặc rút lui.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, yếu tố cốt lõi không chỉ là ưu đãi hay chi phí, mà trước hết là khả năng bảo toàn vốn và duy trì hoạt động sản xuất liên tục. Họ không thể chấp nhận rủi ro từ việc nhà máy bị phá hoại, thiết bị bị tổn thất hoặc chuỗi sản xuất bị gián đoạn kéo dài. Vì vậy, môi trường chính trị ổn định và lập trường nhất quán của giới lãnh đạo luôn là tiêu chí hàng đầu trong các quyết định đầu tư dài hạn.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao nhờ sự ổn định chính trị bền vững và cam kết cải cách rõ ràng. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là từ công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã kiên trì theo đuổi con đường cải cách gắn với ổn định, phát triển từng bước nhưng chắc chắn. Đến năm 2026, Việt Nam sẽ hoàn thành 40 năm Đổi mới, đồng thời đang thúc đẩy các cải cách theo hướng “Đổi mới 2.0”, thể hiện quyết tâm tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng tăng trưởng và thu hút FDI theo hướng bền vững.
Uy tín của Chính phủ Việt Nam được củng cố bởi kỷ luật tài khóa chặt chẽ, nỗ lực kiểm soát tham nhũng và tầm nhìn phát triển dài hạn hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Với mốc thời gian không còn xa, lãnh đạo Việt Nam đang thúc đẩy cải cách một cách thận trọng, có lộ trình, tránh những thay đổi đột ngột hay mang tính cực đoan – yếu tố đặc biệt quan trọng đối với niềm tin của giới đầu tư.
Sự nhất quán trong đường lối, cùng với các chính sách thân thiện với nhà đầu tư, đã tạo dựng niềm tin vững chắc trong cộng đồng doanh nghiệp quốc tế. Bên cạnh đó, lợi thế về chi phí lao động cạnh tranh tiếp tục gia tăng sức hấp dẫn của Việt Nam so với các nền kinh tế có chi phí cao hơn như Trung Quốc hay Ấn Độ, trong khi chỉ một số ít quốc gia trong khu vực còn duy trì mức lương thấp hơn.
Nhờ nền tảng chính trị ổn định, chính sách đáng tin cậy và tầm nhìn dài hạn của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đang từng bước xây dựng một hệ sinh thái đầu tư toàn diện, bao trùm từ hạ tầng, năng lượng đến định hướng chuyển đổi sang các nguồn năng lượng bền vững. Chính “tài sản vô hình” này đã và đang giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo có năng lực, kỷ luật và đáng tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước.
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty Star Engineers Việt Nam, Khu công nghiệp Bình Xuyên I (Phú Thọ). Ảnh: Nguyễn Thảo/TTXVN
Nhìn lại 5 năm qua, Giáo sư Reena Marwah đánh giá phục hồi kinh tế của Việt Nam được nâng đỡ cùng lúc bởi 3 trụ cột: phát triển hạ tầng, thu hút FDI và chuyển đổi số. Đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông đã thúc đẩy hoạt động xây dựng và cải thiện kết nối vùng. Quá trình số hóa diễn ra nhanh chóng, giúp giảm đáng kể thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Hệ thống ngân hàng được củng cố, chính sách tiền tệ ngày càng cải thiện về tính ổn định và dự báo, dù vẫn còn dư địa hoàn thiện. Giáo sư cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia để giảm chi phí huy động vốn cho các dự án hạ tầng lớn trong tương lai.
Lợi thế nhân khẩu học với dân số trẻ, ít nhất đến khoảng năm 2040, tiếp tục là điểm cộng lớn, đặc biệt trong bối cảnh nhiều nền kinh tế lớn đang đối mặt với già hóa dân số.
Một điểm nhấn quan trọng khác trong đánh giá của Giáo sư Reena Marwah là vai trò của các chính sách phúc lợi xã hội và giảm nghèo. Ngay cả trong giai đoạn chịu áp lực tài khóa do đại dịch, Việt Nam vẫn duy trì đầu tư cho giáo dục, y tế và an sinh xã hội, thể hiện rõ tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Nhờ đó, Việt Nam đạt tỷ lệ biết chữ trên 95%, giảm nghèo nhanh chóng và hoàn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ sớm hơn nhiều năm. Việc đầu tư đồng đều vào các vùng, phát triển hạ tầng kết nối và tạo việc làm trên khắp cả nước đã giúp tránh tình trạng phát triển lệch vùng, củng cố gắn kết xã hội và ổn định chính trị lâu dài.
Theo Giáo sư Reena Marwah, Việt Nam không chỉ đang theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng cao cho giai đoạn 2025-2026, mà còn xây dựng nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững dài hạn. Thách thức phía trước là không nhỏ, song với sự kết hợp giữa ổn định chính trị, cải cách nhất quán, hội nhập sâu rộng và phát triển bao trùm, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để hiện thực hóa các mục tiêu mà Quốc hội đã đề ra, đồng thời khẳng định vị thế ngày càng quan trọng trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu.