Tăng trưởng khả quan
Theo số liệu được Bộ Công Thương mới công bố, sản xuất công nghiệp tháng 2/2022 ước tính giảm 12,4% so với tháng trước do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán Nhâm Dần phần lớn tập trung trong tháng Hai. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp tháng 2/2022 tiếp tục khởi sắc với mức tăng 8,5%; tính chung 2 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 5,4% so với 2 tháng đầu năm 2021.
Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 6,1% (cùng kỳ năm 2021 tăng 9,4%), ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,5%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,5%...
Chỉ số sản xuất tháng 2 tháng đầu năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, sản xuất thiết bị điện tăng 27,9%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 21,2%; sản xuất trang phục tăng 20,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15%; sản xuất xe có động cơ tăng 10,8%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 10,6%; sản xuất phương tiện vận tải khác (mô tô, xe máy) tăng 10,2%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 9,7%...
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 2 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như Alumin tăng 20,3%; bột ngọt tăng 17,6%; thủy hải sản chế biến tăng 15%; quần áo mặc thường tăng 14,1%; ô tô tăng 12,2%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 11,8%; sữa tươi tăng 11,5%; xi măng tăng 11%; linh kiện điện thoại và xe máy cùng tăng 10,7%; thép cán tăng 10,5%; thức ăn cho gia súc tăng 10,4%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/2/2022 tăng 1,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,3% so với cùng thời điểm năm trước.
Doanh nghiệp cần chủ động thích nghi tình hình mới
Đánh giá về tăng trưởng của hoạt động sản xuất công nghiệp trong 2 tháng đầu năm, PGS.TS Phạm Tất Thắng, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) cho biết, đợt dịch COVID-19 lần thứ tư diễn ra từ cuối tháng 4/2021 đã tấn công vào các trung tâm sản xuất công nghiệp của nước ta. Đây là tổn thất nặng nề, gây ra khó khăn rất lớn cho công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam. Tuy nhiên, với chủ trương “sống chung” an toàn với COVID-19 của Chính phủ đề ra và sự hưởng ứng, nhanh nhạy của các doanh nghiệp, khu công nghiệp đã bắt nhịp lại được. Chuỗi cung ứng đã bắt đầu nối lại được, các doanh nghiệp, nhà máy, khu công nghiệp trở lại quá trình hoạt động bình thường.
“Trong thời gian qua, Chính phủ và hệ thống ngân hàng cũng đã cố gắng tìm ra các nguồn vốn lãi suất thấp để cho các doanh nghiệp vay. Đây cũng là giải pháp hiệu quả giảm thiểu khó khăn, rủi ro cho doanh nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam đã tận dụng được lợi ích đem lại từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA)”, PGS.TS Phạm Tất Thắng cho hay.
Tuy nhiên, theo chuyên gia này, trong thời gian tới, sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam sẽ đối mặt không ít khó khăn do thiếu nguồn nhân lực có tay nghề cao. Trong đợt dịch COVID-19 lần thứ tư vừa qua, lực lượng lao động của các khu công nghiệp đã bị tản mát nhất định, làm sao tập hợp và tuyển dụng mới được những lao động tay nghề cao là vấn đề đáng lưu tâm.
Bên cạnh đó, tình hình thế giới hiện nay đang bất ổn. Chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine... Những yếu tố này sẽ khiến các con đường vận chuyển, các chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng; ngoại tệ biến động khó lường. Theo PGS.TS Phạm Tất Thắng, khi có những biến động như vậy, việc nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm… sẽ rất khó khăn. Các doanh nghiệp cần lường trước những khó khăn này, nhận thức rõ để quản trị rủi ro cho phù hợp, giảm thiểu các rủi ro.
Cùng với đó, giá xăng dầu sẽ ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Nhà nước đã khẳng định nguồn cung xăng dầu trong nước vẫn đảm bảo trong thời gian tới; đồng thời cố gắng áp dụng các giải pháp để có thể giảm thiểu tốc độ tăng giá. Thị trường thế giới biến động là bất khả kháng, đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình khôi phục sản xuất của Việt Nam.
“Bên cạnh các chính sách, giải pháp của cơ quan quản lý Nhà nước, hơn lúc nào hết, các doanh nghiệp phải chủ động, linh hoạt có các phương án thích ứng với hoàn cảnh này”, PGS.TS Phạm Tất Thắng nhận định.