Phát triển nhiệt điện than - Bài 1: Nhiệt điện than vẫn lớn trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam

Theo Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020, công suất nhiệt điện than ở mức 42,7% trong tổng công suất nguồn; đến năm 2025, công suất nhiệt điện than là 49,3%... và năm 2030, nhiệt điện than sẽ giảm còn 42,6%.

Chú thích ảnh
Cảng nhập than Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân. Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN

Mặc dù đã cắt giảm khoảng 20.000 MW điện than trong quy hoạch này nhưng nguồn điện này vẫn chiểm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng, nhiệt điện than có thể gây ra sự ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe người dân, nếu công nghệ yếu kém và kiểm soát vận hành không tốt. Tuy nhiên,  các bộ ngành và nhiều chuyên gia vẫn ủng hộ quan điểm xây dựng nhiệt điện than, bên cạnh phát triển các loại hình năng lượng khác như năng lượng tái tạo, nhiệt điện khí. 

Những lo ngại về tác động môi trường do nhiệt điện than mang lại là có lý do. Song nhiều ý kiến cho rằng, nếu có thể đảm bảo yếu tố công nghệ và đầu tư xây dựng, các nhà máy nhiệt điện than vẫn sẽ trong mức “an toàn”. Vì vậy, với ưu điểm của mình, nhiệt điện than vẫn khó có thể thay thế trong cơ cấu nguồn điện vào những năm tới. Vậy đâu là nguyên nhân? 

PGS. TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam cho hay, trung bình trên thế giới, nhiệt điện than đang chiếm từ 40 - 70% trong cơ cấu nguồn điện. Tại Mỹ là khoảng 43%, Australia là 68%, Đức là 45%...

Tính tại Việt Nam, đến năm 2020 với tổng sản lượng điện khoảng 265 tỷ kWh; trong đó, nhiệt điện than sẽ vào khoảng 130 tỷ kWh, chiếm 49%, thủy điện là 25%, nhiệt điện khí dầu là 16,6%...

Giải thích về nguyên nhân nguồn nhiệt điện than vẫn lớn trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam, ông Trương Duy Nghĩa cho rằng, với thủy điện, ưu điểm là giá thành sản xuất điện rẻ nhất, sạch, thời gian xây dựng ngắn nhưng Việt Nam và các nước hiện nay đã khai thác gần như triệt để, không còn nguồn để phát triển. Đồng thời, thủy điện cũng tốn nhiều diện tích để làm hồ chứa, lượng di dân rất lớn, cần có rừng phòng hộ và khởi thông lòng hồ thường xuyên. 

Với nhiệt điện khí, thời gian thi công nhanh, thích hợp phủ đỉnh đồ thị phụ tải, hiệu suất cũng là rất cao, đạt tới gần 60% so với 42 - 43% của nhiệt điện than. Tuy nhiên, điện khí lại rất đắt tiền, chi phí vận hành, bảo dưỡng cao gấp 2 lần nhiệt điện than. Giá thành sản xuất điện khí từ 12 - 14 cent/kWh..., do vậy, chưa phù hợp để có thể thay thế hoàn toàn nhiệt điện than, phù hợp với tài chính của doanh nghiệp và người dân sử dụng điện. 

Hiện nay, nguồn điện từ năng lượng tái tạo, gồm địa nhiệt, điện gió, điện mặt trời, biomass giúp bảo vệ môi trường, song số giờ Tmax chỉ đạt 1.500 giờ/năm, sản lượng điện sản xuất ra chỉ đạt 1/5 - 1/6 so với nhiệt điện than. Như vậy, giá sẽ cao hơn điện than. Đó là chưa tính đến việc xử lý môi trường sau dự án và việc đấu nối...

Trong khi đó, ông Trương Duy Nghĩa cho hay, nhiệt điện than hiện cho giá thành thấp nhất (sau thủy điện), khoảng 7 cent/kWh, vốn đầu tư thấp 1.500 USD/kWh, khả năng huy động công suất lớn Tmax có thể đạt 7.500 giờ/năm khi thiếu hụt, nên sản lượng phát điện lớn. 

“Các nước đều dùng nhiệt điện than để đáp ứng nhu cầu điện năng trong phát triển kinh tế sau khi đã khai thác hết các nguồn thủy điện. Đây là thời kỳ phát triển mạnh kinh tế, nhu cầu điện năng rất cao. Khi nào đất nước giàu có hơn mới có thể nghĩ đến việc phát triển các dạng năng lượng khác như điện tái tạo và mới bắt đầu hạn chế sự phát triển nhiệt điện than”, PGS. TS. Trương Duy Nghĩa nói. 

Tuy nhiên ông Nghĩa cũng thừa nhận, nhiệt điện than sẽ sử dụng nguồn nhiên liệu rất lớn để sản xuất điện, có thể phát thải ra môi trường nếu xử lý không tốt...

Cũng theo nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyễn Mạnh Hiến, theo Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh Chính phủ đã phê duyệt thì nguồn nhiệt điện than đến năm 2025 vẫn ở mức 55% và năm 2030 ở mức 53%. Bởi rất khó để có thể tìm nguồn khác thay thế một cách hợp lý. 

Năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng sạch nhưng cũng có rất nhiều nhược điểm. Điều này có thể kể đến như: hệ số công suất thấp, chỉ từ 20 - 30% trong khi nhiệt điện là 70 - 80%. Chi phí đầu tư cao hơn nhiều so với nhiệt điện than. Đặc biệt là năng lượng tái tạo phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, địa điểm... nên không thể điều chỉnh được theo yêu cầu. 

Đó là chưa kể đến sự phức tạp trong việc đấu nối lưới điện, quỹ đất, đầu tư các trạm biến áp, đường dây truyền tải lớn... Do đó, chỉ có thể coi đây là nguồn bổ trợ mà không thể thay thế được nguồn nhiệt điện than. 

Đầu tư nhiệt điện khí cũng vậy, sắp tới Việt Nam sẽ phải nhập khẩu khí hóa lỏng, vậy liên quan đến luồng tàu, hầm chứa, bảo quản... giá thành đắt hơn giá nhiệt điện than. 

“Vì thế trong thời gian tới, nhiệt điện than vẫn đảm bảo phụ tải nền cho biểu đồ phụ tải tiêu thụ điện quốc gia, cung cấp điện cho các hộ tiêu thụ điện công nghiệp. Các nhà máy nhiệt điện than với thời gian và chi phí đầu tư hợp lý đang là nguồn phù hợp với mô hình phát triển kinh tế của các quốc gia đang phát triển”, ông Nguyễn Mạnh Hiến nhận định. 

Theo mục tiêu đề ra đến năm 2020, Việt Nam phải có 265 tỷ kWh điện, đến năm 2030 phải có 570 tỷ kWh điện. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam mới có trên 170 tỷ kWh điện, vì vậy, áp lực để cân đối nguồn điện sẽ là rất lớn. Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi cho rằng, thủy điện đã khai thác gần hết, năng lượng tái tạo chỉ có thể là năng lượng phụ trợ, nhiệt điện khí còn đắt đỏ. Do đó, nên cân nhắc việc tăng cường đầu tư nhiệt điện than, để đáp ứng nhu cầu điện, phát triển công nghiệp của đất nước. 

Rõ ràng, trong thời gian ngắn tới đây, để giảm tỷ lệ nhiệt điện than là không hề đơn giản, sẽ rất khó tìm nguồn điện thay thế một cách hợp lý. Nhưng Việt Nam với mức độ tăng trưởng tiêu thụ điện cao, ngoài việc phát triển điện than thì cần nâng công suất của các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo, vì đây sẽ là yếu tố vừa đảm bảo cung ứng điện, vừa giảm thiểu tác hại tới môi trường...

Đức Dũng (TTXVN)
Tiến độ tổng thể dự án Nhiệt điện Thái Bình 2 đạt 83%
Tiến độ tổng thể dự án Nhiệt điện Thái Bình 2 đạt 83%

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đang tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ đưa dự án Nhiệt điện (NMNĐ) Thái Bình 2 về đích.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN