Đây là nhận định chung của các đại biểu tại hội thảo đánh giá kết quả "Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020, xây dựng chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2040" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh, ngày 2/11.
Xuất khẩu khả quan
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, tính đến hết tháng 9/2019, kim ngạch xuất khẩu của ngành chăn nuôi đã đạt 855,4 triệu USD. Trong số đó có gần 8.800 tấn thịt lợn, trị giá 44 triệu USD; gần 17.800 tấn thịt gia cầm, trị giá 18,8 triệu USD và 7,4 triệu quả trứng, trị giá 1,4 triệu USD.
Xuất khẩu mật ong cũng đã đạt được gần 23.000 tấn, trị giá 28,7 triệu USD; xuất khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa cũng đạt 230 triệu USD; xuất khẩu nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi đạt 516 triệu USD. Với đà tăng trưởng này, xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi cả năm 2019 có thể đạt tới 1,2 tỷ USD.
Theo ông Phùng Đức Tiến, thời gian qua ngành chăn nuôi đã góp phần rất lớn vào việc đảm bảo an sinh xã hội, phát triển ngành thực phẩm và từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 2017 đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của ngành chăn nuôi gia cầm khi lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu được chính ngạch thịt gà chế biến và quan trọng là xuất khẩu được sang Nhật Bản, một trong những thị trường có yêu cầu khắt khe nhất thế giới.
Tính đến cuối năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu chính ngạch được 171 lô thịt gà chế biến sang Nhật Bản với tổng khối lượng đạt 1.080 tấn có giá trị gần 6 triệu USD. Tổng sản lượng thịt gia cầm xuất khẩu năm 2018 của Việt Nam (bao gồm cả hàng nhập khẩu để chế biến xuất khẩu) đạt 25.762 tấn, tăng 124% so với năm 2017.
Trong năm 2018, Việt Nam cũng xuất khẩu được gần 40 triệu quả trứng các loại. Hiện có 9 doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu trứng gà thương phẩm và sản phẩm trứng muối sang Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Campuchia, Lào, Australia và Hong Kong, Đài Loan (Trung Quốc). Ngoài ra, có 1 doanh nghiệp được xuất khẩu trứng gà giống sang Myanmar.
Đối với xuất khẩu thịt lợn vẫn được triển khai đều đặn qua đường tiểu ngạch tới các nước trong khu vực, bao gồm lợn sống, lợn mảnh và lợn sữa. Còn theo đường chính ngạch, tổng sản lượng xuất khẩu thịt lợn năm 2018 đạt 9.335 tấn, bao gồm cả hàng nhập khẩu để gia công, chế biến xuất khẩu. Trong đó, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu thịt lợn sữa và lợn choai đông lạnh sang Hong Kong (Trung Quốc) và Malaysia.
Bên cạnh đó, mật ong cũng đang là một trong những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam với sản lượng tăng mạnh từ gần 10.000 tấn lên trên 20.400 tấn trong giai đoạn 2008-2018, đạt tốc độ tăng trưởng 7,4%/năm. Riêng năm 2018, sản lượng xuất khẩu đạt trên 40.000 tấn, chủ yếu sang Hoa Kỳ, EU và một số nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan…
Về xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa, năm 2018 cả nước đã có 18 doanh nghiệp đăng ký kiểm dịch xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa sang 17 nước với tổng sản lượng xuất khẩu 11.450 tấn, tăng gần 84% so với năm 2017.
Đáng chú ý, cuối tháng 10 vừa qua, Công ty sữa TH đã ký kết hợp đồng xuất khẩu lô sản phẩm sữa đầu tiên với đối tác Trung Quốc, mở ra cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu sữa Việt Nam bởi Trung Quốc đang là thị trường có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu sữa rất lớn.
Xây dựng chiến lược phát triển mới
Ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, mặc dù nhưng năm qua ngành chăn nuôi đã đạt được nhiều kết quả khả quan, đảm bảo cung cấp thực phẩm cho người dân trong nước và một phần cho xuất khẩu, tuy nhiên nội tại của ngành vẫn còn nhiều tồn tại. Trong khi đó, đa phần mô hình chăn nuôi đều có quy mô nhỏ, mức đầu tư thấp, trình độ quản lý kém khiến năng suất, chất lượng thấp, khó kiểm soát dịch bệnh và an toàn thực phẩm.
Thêm vào đó, năng lực giết mổ tập trung và chế biến sản phẩm chăn nuôi còn hạn chế, chủ yếu giết mổ nhỏ lẻ và chế biến thủ công nên giá trị gia tăng của sản phẩm thấp, khó tiếp cận thị trường xuất khẩu. Một điểm yếu khác của ngành chăn nuôi là thiếu tính liên kết, chưa xây dựng được các chuỗi giá trị thực phẩm từ chăn nuôi đến giết mổ, chế biến và tiêu thụ.
Chính vì vậy, trong giai đoạn 2020 - 2030, ngành chăn nuôi định hướng phát triển các loại vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi gắn với khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh và thích ứng với thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Theo đó, các sản phẩm chăn nuôi quốc gia bao gồm: lợn, gia cầm, bò sữa, bò thịt được sản xuất theo hướng hàng hóa trong các trang trại hiện đại và hộ chăn nuôi chuyên nghiệp để đảm bảo năng suất, chất lượng và kiểm soát tốt dịch bệnh, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc.
Để thực hiện được mục tiêu trên, ngành chăn nuôi đề ra nhiều giải pháp như: đổi mới khoa học và công nghệ chăn nuôi; thực hiện tốt phòng chống dịch bệnh bằng chăn nuôi an toàn sinh học; nâng cao năng suất, chất lượng con giống, quy hoạch và tổ chức hiệu quả hoạt động giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi, ưu tiên chế biến sâu.
Quan trọng nhất là phải tổ chức được các ngành hàng chăn nuôi theo chuỗi liên kết, phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp, hiệp hội và hợp tác xã, giảm thiểu tối đa các hộ chăn nuôi ngoài chuỗi, không biết nuôi theo tiêu chuẩn nào và bán cho thị trường nào.
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Mấy, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tây Ninh cho rằng, để ngành chăn nuôi phát triển bền vững, chỉ xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm là chưa đủ mà phải gắn liền với định hướng thị trường.
Theo ông Nguyễn Văn Mấy, khác với nền chăn nuôi tự cung tự cấp trước đây, hiện nay, thị trường hàng hóa và thực phẩm rất đa đạng, nguồn cung cũng dồi dào, không chỉ từ chăn nuôi trong nước mà có cả sản phẩm ngoại nhập.
Chính vì vậy, việc dự báo thị trường và định hướng chăn nuôi phù hợp với nhu cầu tiêu dùng đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành hàng. Nếu chỉ tập trung gia tăng tổng đàn, sản lượng chăn nuôi mà không làm tốt khâu định hướng, phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thì rất dễ xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu.
Nhiều đại biểu cũng cho rằng, trong bối cảnh hội nhập, bên cạnh cơ hội xuất khẩu thì sản phẩm chăn nuôi Việt Nam cũng phải chịu sự cạnh tranh trực tiếp từ sản phẩm nhập khẩu. Chính vì vậy, người chăn nuôi, doanh nghiệp chế biến chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và tăng cường xây dựng thương hiệu để củng cố thị phần tiêu dùng trong nước đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu.