Báo cáo được công bố đúng vào thời điểm Chính phủ Việt Nam đang xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030) và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025). Báo cáo đã đưa ra các khuyến nghị chính sách giúp Việt Nam duy trì sự tăng trưởng có chất lượng cao thông qua các doanh nghiệp năng động hơn, cơ sở hạ tầng hiệu quả, lao động có tay nghề, hướng tới một nền kinh tế xanh hơn.
Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cho biết, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển, nhưng hiện nay, đất nước đang ở một ngã ba đường khi các động lực tăng trưởng truyền thống đang dần suy yếu. Để đạt mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 thì sự tăng trưởng năng suất phải giữ vị trí then chốt trong mô hình phát triển kinh tế ở thập kỷ tới. Nói cách khác, Việt Nam cần có quyết sách để không chỉ phát triển nhanh hơn mà còn chất lượng hơn.
Theo bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia tại Việt Nam, cam kết cải cách kinh tế quyết liệt là một nhân tố quan trọng đưa đến những thành tựu phát triển nổi bật của Việt Nam. Australia tự hào đã hỗ trợ báo cáo này - báo cáo cung cấp các khuyến nghị chi tiết về việc làm thế nào để Việt Nam có thể nâng cao năng suất, qua đó cải thiện chất lượng, sự công bằng trong phát triển kinh tế.
Theo báo cáo, mô hình phát triển dựa vào năng suất - kết hợp đổi mới, sáng tạo với phát triển cân bằng, phân bổ hiệu quả vốn tư nhân và nhà nước, vốn nhân lực và vốn tự nhiên - sẽ là yếu tố then chốt để Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.
Một số động lực cho sự tăng trưởng chính của Việt Nam đang giảm xuống. Lợi thế từ dân số vàng đang giảm đi và thương mại toàn cầu cũng đang suy giảm. Ngoài ra, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức khác ngày một gia tăng như ô nhiễm, xu thế tự động hóa. Cuộc khủng hoảng COVID-19 có thể đẩy nhanh những xu hướng này.
Báo cáo “Việt Nam Năng động: Tạo nền tảng cho nền kinh tế thu nhập cao cho rằng để tiếp tục sự tăng trưởng trong một môi trường có nhiều biến động như vậy, Việt Nam cần tập trung củng cố các tài sản sản xuất. Trong đó, ưu tiên bốn lĩnh vực: doanh nghiệp năng động, khuyến khích cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng gia nhập và rời thị trường để đảm bảo nguồn lực được đưa đến những công ty sáng tạo, hiệu quả nhất. Điều này chỉ có thể xảy ra trong một môi trường kinh doanh thuận lợi, doanh nghiệp được đảm bảo khả năng tiếp cận tài chính, quy định pháp lý minh bạch, được pháp luật bảo vệ.
Về cơ sở hạ tầng hiệu quả, Việt Nam đã xây dựng rất nhiều công trình cơ sở hạ tầng. Nhưng hiện nay Chính phủ Việt Nam cần nâng cao hiệu quả, tính bền vững của dịch vụ hạ tầng, đặc biệt trong việc huy động tài chính, vận hành và bảo trì.
Về lao động có tay nghề cao và cơ hội cho tất cả mọi người, Việt Nam có thứ hạng cao về giáo dục phổ thông. Nhưng một mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất thì cần có sự nâng cao chất lượng giáo dục đại học, các chương trình đào tạo kỹ thuật, dạy nghề; cần trao nhiều cơ hội hơn nữa cho những người đang đối mặt với các rào cản gia nhập thị trường lao động, trong đó có người dân tộc thiểu số, để thúc đẩy công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh già hóa dân số và lực lượng lao động giảm.
Về Kinh tế xanh, để phát triển bền vững, cần quản lý hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên không tái tạo như đất, rừng và nước; kiểm soát ô nhiễm chặt chẽ hơn, đặc biệt ở các trung tâm đô thị lớn; giảm thiểu, thích ứng với các tác động không thể tránh khỏi của sự biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng.