Thực thi CPTPP đã đem lại tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng cho Việt Nam, là động lực mở rộng đường cho hàng hóa Việt sang các thị trường mới mẻ và tiềm năng trong Hiệp định. Đặc biệt, tham gia CPTPP, doanh nghiệp Việt Nam được hưởng mức cắt giảm thuế quan rất ưu đãi nhất là các mặt hàng có thế mạnh.
Tuy nhiên, ưu đãi thuế quan lớn cũng đi kèm với điều kiện về xuất xứ, yêu cầu về nguyên liệu sản phẩm nghiêm ngặt hơn khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại.
Sau hơn 3 năm thực thi, tỷ lệ tận dụng những ưu đãi xuất xứ thực hiện trong CPTPP còn chưa cao ở một số nhóm ngành hàng trọng điểm. Điều này, khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng hết tiềm năng lợi thế trong thời kỳ “một mình một chợ” khi thực thi CPTPP.
Đây là nội dung được các đại biểu đưa ra bàn luận tại Tọa đàm Gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam trong CPTPP do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 1/12 tại Hà Nội.
Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), thời gian qua ức và hiểu biết của doanh nghiệp về FTA nói chung và hiệp định CPTPP nói riêng đã cải thiện đáng kể. Tỉ lệ các doanh nghiệp hiểu về Hiệp định CPTPP hay hiểu rõ về Hiệp định CPTPP đã tăng trưởng rất mạnh.
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang CPTPP nói chung và đặc biệt là sang ba thị trường FTA mới, tức thị trường chưa có FTA khi ký CPTPP là Canada, Mexico, Peru tăng trưởng rất mạnh và thặng dư thương mại từ riêng hai thị trường Canada và Mexico đã là một con số rất đáng kể.
Tuy nhiên, dù xuất khẩu sang Canada, Mexico tăng giá trị tăng nhưng tỷ trọng của hai thị trường này còn tương đối khiêm tốn. Cùng đó là những mặt hàng có tỷ lệ tận dụng tốt thì giá trị còn tương đối hạn chế.
Ngoài ra, những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu giá trị cao cũng đang dừng lại ở tỷ lệ chưa cao. Đây là những điểm cần chú ý để tập trung cải thiện hơn trong thời gian tới.
Ông Ngô Chung Khanh cho hay, mục tiêu của Bộ Công Thương xây dựng trong thời gian tới đó là tăng tính kết nối để vươn xa hơn và kỳ vọng sẽ có những tiến triển tích cực trong thời gian tới.
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng công ty May Hưng Yên (Hugaco) chia sẻ, khó khăn trong đầu tư xử lý nước thải làm giảm cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi tiêu chuẩn môi trường đặt ra tiêu chí, tiêu chuẩn về môi trường để thực hiện, còn đối với nước ngoài cũng đang hướng tới vấn đề xanh nhưng không phải tức thì, ngay kể cả châu Âu.
Do vậy, ông Nguyễn Xuân Dương cho rằng làm tốt ở công đoạn nào, cạnh tranh ở chỗ đó. Ngoài ra, phải thu hút được năng lực, công nghệ của doanh nghiệp nước ngoài để liên kết nâng cao năng lực cung ứng nguyên phụ liệu trong nước.
Có thể khẳng định một điều rằng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cùng với tiến trình phát triển, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước trưởng thành rất lớn.
Điều này thể hiện được sự tăng trưởng trong nhiều năm đều đạt trên 10%, nhất là năm 2021 rất khó khăn nhưng đã vượt hơn cả, tức xấp xỉ bằng năm 2020; đến năm 2022 này công ty dự kiến là sẽ đạt khoảng từ 42 - 43 tỷ đồng kim ngạch xuất khẩu.
Về thuận lợi, đánh giá của thị trường thế giới đánh giá rằng hàng Việt đẹp, chất lượng tốt, chỉ có điều về giá cả cần cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, tới đây doanh nghiệp phải đầu tư, đổi mới để được những công nghệ, quản trị công nghệ số và tăng năng suất, giảm những nhân công không cần thiết.
Cùng đó, kết hợp được với các doanh nghiệp nước ngoài bởi hiện nay hầu hết doanh nghiệp Việt Nam mới nằm ở một ở công đoạn rất thấp, có một số xuất khẩu sợi để xuất đi, một số ở ngành may.
Theo bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), phải nói rằng khá nhiều nhóm hàng có tỷ lệ sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu đãi CPTPP cao chứ không phải là nhóm hàng nào cũng là thấp.
Đơn cử, ngành da giày hay tương tự dệt may, nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài nhưng quy tắc xuất xứ khác hơn so với dệt may và đặc thù ngành da giày doanh nghiệp FDI khá đông. Họ quan tâm đến FTA hơn và tận dụng ưu đãi cũng như có những chuỗi trong nội bộ để tận dụng nguồn nguyên liệu theo chuỗi.
Để tận dụng tối đa ưu đãi, bà Đỗ Thị Thu Hương mong muốn cộng đồng doanh nghiệp chủ động tìm hiểu và nắm bắt thông tin về mặt hàng và thị trường cũng như những ưu đãi thuế quan theo các hiệp định đem lại để biết được rằng cơ hội ở đâu, thị trường nào và nhóm hàng nào.
Mặt khác, doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến những quy định về quy tắc xuất xứ, tìm hiểu để đáp ứng được quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược cũng như kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.
Nhằm đáp ứng được cấp C/O cũng cần phải có đầu tư về chuyện lưu trữ chứng từ để chứng minh xuất xứ. Đây cũng là một gánh nặng tài hành chính về mặt hành chính cho doanh nghiệp khá nhiều khi mà các cơ quan chức năng cũng như là nước nhập khẩu vào kiểm tra, điều tra về quy tắc xuất xứ.
Liên quan đến việc tổ chức hệ thống cấp C/O, bà Đỗ Thị Thu Hương cho hay, Bộ Công Thương sẽ tăng cường chuyển giao cho doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ.
Hiện nay phần lớn đều là do tổ chức cấp C/O, doanh nghiệp phải đến đăng ký nộp hồ sơ cho các tổ chức cấp để Bộ Công Thương theo xu hướng sẽ chuyển dịch dần sang cho doanh nghiệp tự chứng nhận và hiện nay đã làm với ASEAN rồi và sẽ sang các hiệp định khác.
Tuy nhiên sự quan tâm của doanh nghiệp liên quan đến việc tự chứng nhận xuất xứ hiện nay còn đang rất hạn chế nên doanh nghiệp cần quan tâm hơn, tham gia nhiều hơn và đảm bảo được tính chủ động, tiết kiệm về mặt thời gian, chi phí.
Ngoài ra, Bộ Công Thương phối hợp khá chặt chẽ với các hiệp hội ngành hàng; trong đó, có Hiệp hội Dệt may để tổ chức cuộc hội thảo, tọa đàm. Một mặt đưa những thông tin về hiệp định, thuế suất lẫn quy tắc xuất xứ với doanh nghiệp ngành hàng; đồng thời cũng có trao đổi hai chiều để tiếp nhận những khó khăn, những vướng mắc của Hiệp hội ngành hàng gặp phải trong quá trình thực thi.
Bộ Công Thương cũng đã tăng cường những hội thảo cũng như những hoạt động xúc tiến thương mại sang các thị trường có FTA để tìm kiếm các cơ hội thị trường cho cộng đồng doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Thi, Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường đồng tình với ý kiến của hai diễn giả về những khó khăn và những thuận lợi để nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thêm vào đó, tăng tính liên kết và gia nhập các chuỗi giá trị toàn cầu sẽ giải quyết được các vấn đề liên quan đến nguyên vật liệu. Tuy nhiên, ông Nguyễn Thi cho rằng cần phát huy được thế mạnh của nhân lực công công nhân, sự khéo léo tỉ mỉ để có thể lôi kéo được các thương hiệu lớn bởi họ cần sự tinh túy trong quá trình sản xuất, nâng cao giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, cần hướng chuyển đổi sang tăng trưởng xanh, phát huy các mô hình kinh tế tuần hoàn, phát thải thấp mau phục hồi.
Sắp tới Bộ Tài nguyên Môi trường sẽ đưa ra một quy chuẩn xả thải nước thải công nghiệp chung cho tất cả các ngành. Theo đó, sẽ thống nhất và bình đẳng trong thực hiện bảo vệ môi trường, không có sự ưu đãi đặc biệt và áp dụng quy chuẩn môi trường thống nhất tạo sự dễ dàng trong việc thực hiện tuân thủ quy định bảo vệ môi trường.
Ông Trần Thế Phương, Trưởng phòng Quản lý Thương mại, Sở Công Thương Bình Dương nhấn mạnh, để khai thác hiệu quả Hiệp định CPTPP, ngành công thương sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành tập trung phát triển cho ngành công nghiệp phụ trợ, đầu tư xây dựng mới cái cụm công nghiệp hỗ trợ và xây dựng những cái trung tâm phân phối nguyên phụ liệu để phục vụ sản xuất.
Cùng đó, phát triển thêm một số cụm công nghiệp chuyên ngành như cơ khí chế biến gỗ, may mặc… những ngành có chỉ số xuất khẩu cao của tỉnh để nhằm chuyên môn hóa cao và tận dụng nguyên liệu, phụ liệu có sẵn trong nước sản xuất được.
Mặt khác, tập trung phát triển dịch vụ chất lượng cao để hỗ trợ cho xuất nhập khẩu hàng hóa; trong đó, tập trung phát triển ngành dịch vụ logistics, phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Hơn nữa, tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm và kết hợp với việc tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt các Hiệp định FTA đã ký kết nhằm tận dụng tốt các lợi thế và các chính sách ưu đãi về thuế quan.
Đặc biệt, kết nối hệ thống cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với doanh nghiệp trong tỉnh để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, kết toán nguyên khu nguyên phụ liệu trong nước phục vụ sản xuất.
Bên cạnh đó, thường xuyên phối hợp cải cách hành chính thông qua các biện pháp chuyển đổi số nhằm tận dụng các loại thuế, công nghệ thông tin để tuyên truyền và phổ biến sâu rộng hơn nữa các quy định liên quan tới C/O ưu đãi, lợi thế của việc hàng hóa được cấp C/O ưu đãi đến các cá nhân, doanh nghiệp đóng trên địa bàn.