Thời gian qua, ngành vận tải nước ta phát triển “nóng” dẫn đến sự gia tăng phương tiện, chủ xe, doanh nghiệp nhưng cũng nảy sinh nhiều bất cập trong công tác quản lý phương tiện, lái phụ xe. Công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này cũng được đánh giá là chậm đổi mới, mang tính mệnh lệnh hành chính, chưa theo kịp thực tiễn, chưa tạo được thị trường vận tải cạnh tranh lành mạnh, hay khuyến khích được những đơn vị làm tốt, đào thải những đơn vị yếu kém.
Chất lượng không đồng đều
Theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ, trong hơn 10 năm qua, số lượng phương tiện kinh doanh đã tăng hơn 10 lần. Cả nước hiện có tới gần 103.000 xe khách và 620.000 xe tải các loại, với 2.681 doanh nghiệp, 586 hợp tác xã và hàng chục ngàn hộ kinh doanh cá thể.
Ngành vận tải phát triển “nóng” dẫn đến sự gia tăng các phương tiện giao thông. Ảnh: Lê Phú |
Thống kê của Tổng cục Đường bộ cho thấy, từ năm 2000, số hộ kinh doanh vận tải có bước phát triển nhanh chóng, đến nay chiếm 50% tổng số phương tiện. Theo khảo sát, có tới 60% các đơn vị vận tải khách tuyến cố định và gần 83% đơn vị vận tải khách theo hợp đồng chỉ có dưới 10 đầu xe/mỗi đơn vị. Đa số các đơn vị vận tải có quy mô nhỏ lẻ, manh mún nên việc quản lý các điều kiện về an toàn giao thông và chất lượng dịch vụ chưa được quan tâm đúng mức.
Ông Trần Quang Bình, Vụ trưởng Vụ Vận tải và Pháp chế (Tổng cục Đường bộ) đánh giá, hiện nay, nhiều nhà xe tham gia vào lĩnh vực này đã làm nảy sinh nhiều mặt tiêu cực khiến chất lượng không đồng đều, an toàn vận tải không kiểm soát mà các biểu hiện cụ thể là hiện tượng xe “dù”, bến “cóc”, “cơm tù”, chạy vòng vo bắt khách, chở quá tải… gây mất trật tự an toàn giao thông (ATGT). Phần lớn, các đơn vị vận tải nhỏ lẻ không thực hiện quản lý mà chỉ “núp bóng” doanh nghiệp, hợp tác xã dưới dạng đứng ra làm các thủ tục theo quy định đối với cơ quan quản lý thu phí dịch vụ như: Thuê xe, mua thương hiệu đồng thời giao việc điều hành cho chủ hoặc lái xe đảm nhận. Mô hình này đang được áp dụng chủ yếu ở các hợp tác xã vận tải. Cũng theo một tài liệu khảo sát của Ngân hàng Á Châu (ADB), trong vận tải hàng hóa, tỷ lệ xe chạy rỗng trong lĩnh vực này lên tới 30-50% nên chi phí và tiêu hao nhiên liệu cao, đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng xe chở quá tải đồng thời làm gia tăng lưu lượng phương tiện tham gia giao thông.
Đề án đổi mới quản lý vận tải có tính khả thi cao dựa trên sự nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quản lý vận tải một số nước như: Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha. Đề án đã đưa ra được tổng thể các giải pháp quản lý, đổi mới vận tải đường bộ, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với Việt Nam mà không có sự sao chép bất cứ từ nước nào khác. |
Đánh giá về tình trạng “nhà nhà làm vận tải”, ông Nguyễn Văn Quyền, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam cho rằng, vận tải Việt Nam hiện đang phát triển theo kiểu "trăm hoa đua nở" nhưng lại thiếu sự quản lý, giám sát đã và đang để lại những hậu quả xấu. Công tác quản lý nhà nước, bộ máy, nhân sự quản lý lại yếu kém cả về số lượng và chuyên môn nghiệp vụ, chưa theo kịp được sự phát triển. Qua điều tra cho thấy, có đến 16 Sở Giao thông Vận tải (GTVT) không có cán bộ chuyên môn được đào tạo bài bản làm trong lĩnh vực quản lý vận tải. Những đối tượng này đều làm trái ngành, trái nghề, đây là một thực trạng dẫn đến sự yếu kém trong quản lý hiện nay.
Đổi mới quản lý vận tải
Trước thực tế trên, Tổng cục Đường bộ xác định, đổi mới quản lý vận tải đường bộ là một nội dung mang tính tổng thể và dài hơi, song ngay trong năm 2013 - 2014 sẽ xác định những nội dung yếu kém, bức xúc nhất để tập trung giải quyết thật hiệu quả: Tập trung quản lý trách nhiệm chủ xe, chủ doanh nghiệp, trách nhiệm lái xe; tập trung quản lý taxi, bến xe, trạm dừng nghỉ... thúc đẩy quá trình tái cơ cấu lại lực lượng vận tải, hướng tới cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả, hội nhập quốc tế.
Đổi mới quản lý vận tải đường bộ là yêu cầu tất yếu của ngành giao thông vận tải. Ảnh: Lê Phú |
Theo đó, với quản lý vận tải hành khách, cơ quan quản lý nhà nước sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí đánh giá và phân hạng chất lượng dịch vụ đối với từng loại hình kinh doanh, gồm: Chất lượng phương tiện, lái xe và nhân viên phục vụ, hành trình; tổ chức, quản lý của đơn vị; quyền lợi của hành khách. Dựa trên các tiêu chí này, Tổng cục Đường bộ sẽ tiến hành phân hạng chất lượng dịch vụ vận tải. Vận tải hành khách tuyến cố định, du lịch và xe hợp đồng được phân thành năm hạng từ 1 “sao” đến 5 “sao” với thang điểm đánh giá là 100 điểm. Vận tải hành khách bằng xe buýt được phân thành hai hạng gồm hạng 2 “sao” và 3 “sao”, thang điểm đánh giá là 100 điểm. Vận tải hành khách bằng xe taxi được phân thành 3 ba hạng gồm hạng 3, 4, 5 “sao”, thang điểm đánh giá là 90 điểm.
Nhằm khắc phục những tồn tại yếu kém tác động tiêu cực đến chất lượng dịch vụ vận tải, Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Bộ GTVT) đã xây dựng Đề án “Đổi mới quản lý vận tải đường bộ theo hướng hiện đại, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải và giảm thiểu tai nạn giao thông. Đề án sẽ đề ra giải pháp khắc phục những bất cập trong đăng ký và thực hiện chất lượng dịch vụ vận tải, quản lý về ATGT vận tải hiện nay đồng thời là cơ sở để hành khách lựa chọn, giám sát thực hiện chất lượng dịch vụ vận tải và cơ quan quản lý nhà nước có cơ chế khuyến khích, phát triển các đơn vị vận tải quản lý tốt, hạn chế dần những đơn vị chất lượng dịch vụ kém...
Đề án cũng thực hiện hiện đại hóa quản lý vận tải bằng các phần mềm và thống nhất các phần mềm quản lý trong toàn ngành, trước hết là tập trung khai thác hộp cơ sở dữ liệu giám sát hành trình xe. Hệ thống cơ sở dữ liệu chung để cập nhật, đánh giá chất lượng dịch vụ được cung cấp, mức độ an toàn của dịch vụ, từ đó các đơn vị vận tải, hành khách sẽ có đủ thông tin lựa chọn, đánh giá doanh nghiệp và dịch vụ.
Đề cập đến kinh phí xây dựng Đề án, ông Nguyễn Văn Quyền, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam khẳng định: Thời gian thực hiện đề án mà Tổng cục Đường bộ đưa ra là từ 2013-2015, với tổng kinh phí thực hiện ước tính trên dưới 20 tỷ đồng bằng nhiều nguồn vốn. Nguồn kinh phí này Tổng cục mới chỉ đề xuất mà chưa ‘chốt’ chính thức mức kinh phí cụ thể vào Đề án vì phải xác định tổng mức đầu tư vào các dự án thành phần.
Hồng Ninh