Kiến nghị hỗ trợ duy trì năng lực đầu tư của doanh nghiệp FDI
Thuế tối thiểu toàn cầu do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) khởi xướng, hiện đã được 143 quốc gia đồng thuận. Với loại thuế này, các doanh nghiệp có doanh thu từ 750 triệu euro (tương đương 800 triệu USD) trở lên, trong 2 năm của 4 năm liền kề gần nhất đều phải đóng mức thuế là 15%. Hàng loạt “ông lớn” FDI tại Việt Nam sẽ chịu tác động của thuế tối thiểu toàn cầu khi Việt Nam dự kiến áp dụng từ năm 2024 nên đã đưa ra hàng loạt kiến nghị giải pháp.
Ông Choi Joo Ho - Tổng Giám đốc Tổ hợp Samsung tại Việt Nam cho biết: Trong bối cảnh tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, nếu không ứng phó triệt để với chính sách thuế tối thiểu toàn cầu sẽ dẫn tới sự gia tăng khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp FDI. "Do các công ty đang được hưởng ưu đãi thuế của chính sách thu hút đầu tư tại Việt Nam phải nộp bổ sung lên mức thuế suất thuế tối thiểu toàn cầu 15% tại quốc gia có công ty mẹ tối cao nên sẽ làm tăng gánh nặng tài chính về thuế cho tập đoàn, ảnh hưởng đến việc hoạch định tài chính và chiến lược kinh doanh của các công ty, trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam vốn đang có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường", đại diện Sam Sung tại Việt Nam cho biết.
Khó khăn đặc biệt lớn hơn đối với các tập đoàn đang đặt cứ điểm sản xuất của mình tại các nước thu hút đầu tư bằng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Đối với những quốc gia đã và đang áp dụng đa dạng các chính sách thu hút đầu tư như ưu đãi thuế TNDN và ưu đãi dựa trên chi phí sẽ bị ảnh hưởng ít hơn.
“Chính phủ Việt Nam cần đưa ra những quyết đoán trong quá trình ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu này. Chúng tôi có một số kiến nghị về phương án hỗ trợ duy trì năng lực đầu tư của doanh nghiệp FDI và chính sách ưu đãi có liên quan. Việt Nam cần xây dựng hình thức hỗ trợ nhằm bù đắp cho doanh nghiệp FDI bị ảnh hưởng do áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, tùy theo đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp để có tiêu chuẩn áp dụng kèm theo”, ông Choi Joo Ho kiến nghị.
Theo ông Robert King - Phó Tổng Giám đốc Công ty Ernst & Young Việt Nam, bài toán về chính sách đặt ra cho Việt Nam tại thời điểm này là đạt được 2 mục tiêu quan trọng về chủ động giành quyền đánh thuế và tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi. “Việt Nam nên áp dụng thuế tối thiểu nội địa đạt chuẩn. Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ cho nhà đầu tư để tăng tính cạnh tranh, trong đó các khoản hỗ trợ phải đảm bảo sẽ không chỉ áp dụng cho những đối tượng bị ảnh hưởng của việc thực hiện thuế suất tối thiểu toàn cầu mà cần mở rộng ra cho cả các đối tượng khác. Ngoài ra, Chính phủ có thể cân nhắc giải pháp tài chính hỗ trợ song không được thể hiện mối liên quan đến số thuế nộp bổ sung”, ông Robert King đề xuất.
Cẩn trọng để không làm ảnh hưởng sức cạnh tranh
Theo chuyên gia kinh tế Lê Duy Bình, ở Việt Nam có khoảng 1.015 doanh nghiệp FDI thuộc các tập đoàn có doanh thu hợp nhất toàn cầu trên 800 triệu USD, sẽ nằm trong nhóm chịu thuế này. Hiện có các ý kiến khác nhau đối với việc áp loại thuế này. Trong đó, có luồng ý kiến cho rằng, Việt Nam nên sớm áp dụng trong lúc nhiều nước khác đã bắt đầu áp dụng, tránh việc "làm cho người khác hưởng". Khi đó Việt Nam sẽ chậm chân, gánh thiệt thòi. Ngược lại, có quan điểm lại cho rằng, nếu không cẩn trọng, vì mấy đồng thuế sẽ làm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh, môi trường đầu tư của Việt Nam.
“Việt Nam cần nghiên cứu cẩn trọng để có những quy định, áp dụng cụ thể, phù hợp, ‘được’ nhiều hơn ‘mất’. Việt Nam sẽ đứng giữa 2 lựa chọn, thu hồi ưu đãi, buộc doanh nghiệp đóng đủ 15% ở Việt Nam; thứ hai, đóng phần chênh lệch còn lại tại nước nơi họ đặt trụ sở chính”, ông Lê Duy Bình chia sẻ.
Do vậy, một số chuyên gia kinh tế cho rằng: Việt Nam cần tìm giải pháp để tôn trọng các cam kết với các nhà đầu tư, trao cho họ cơ hội để họ chủ động lựa chọn và tìm cách hỗ trợ họ đối với sự lựa chọn đó. Chẳng hạn, các nhà đầu tư có thể lựa chọn đóng thuế tại Việt Nam ở mức ưu đãi và đóng luôn phần chênh lệch còn lại ở Việt Nam để đạt mức 15%, hoặc đóng phần chênh lệch còn lại tại nước nơi họ đặt trụ sở chính.
Theo ông Đặng Ngọc Minh, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế, hiện có khoảng 335 dự án có số vốn đầu tư đăng ký trên 100 triệu USD hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tại các khu kinh tế và khu công nghiệp và đang được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn 15%, trong đó, thường là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao (Samsung, Intel, LG, Bosch, Sharp, Panasonic, Foxconn...). Theo đó, tổng vốn đầu tư đăng ký của các loại dự án này chiếm gần 30% tổng vốn FDI tại Việt Nam (đạt khoảng 131,3 tỷ USD). Đây là những dự án có khả năng sẽ chịu ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu.
Nếu Việt Nam không áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) về thuế TNDN không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, nếu Việt Nam áp dụng quy định thuế tối thiểu nội địa đạt chuẩn, Việt Nam sẽ có quyền đánh thuế bổ sung đối với những doanh nghiệp FDI đang được hưởng thuế suất thực tế tại Việt Nam thấp hơn mức tối thiểu 15%, từ đó tăng thu NSNN. Trường hợp Việt Nam không thu thuế TNDN bổ sung, toàn bộ số thu được ưu đãi cho các doanh nghiệp hiện tại sẽ được các nước phát triển có doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam thu về ngân sách của các nước đó.
Theo ông Đặng Ngọc Minh, Tổng cục Thuế đã có Tờ trình, báo cáo đánh giá tác động trực tiếp cả trước mắt cũng như lâu dài khi thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu đối với hoạt động thu hút FDI. Từ đó, Bộ Tài chính sẽ xây dựng Dự thảo Luật Thuế TNDN và các luật khác có liên quan đến đầu tư, kinh doanh, với tinh thần bảo đảm ổn định môi trường đầu tư, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà đầu tư lớn; đồng thời thực hiện quyền đánh thuế của Việt Nam đối với dự án FDI tại Việt Nam, cũng như dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và doanh nghiệp FDI nhưng phải tuân thủ quy định chung về thuế tối thiểu toàn cầu.
Thuế suất thuế TNDN phổ thông của Việt Nam hiện là 20%, tức là cao hơn mức thuế suất tối thiểu toàn cầu, đây cũng không phải là mức thuế thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp đầu tư nếu đủ điều kiện sẽ được hưởng các chính sách miễn thuế, giảm thuế; miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; hoàn thuế cho lợi nhuận tái đầu tư; cho phép khấu hao nhanh... Vì vậy, mức thuế thực tế đối với các doanh nghiệp FDI trong thời gian ưu đãi trung bình vào khoảng 12,3%, tức là thấp hơn không đáng kể so với mức thuế tối thiểu toàn cầu.
Theo lãnh đạo Tổng cục Thuế, trong hoàn cảnh mới, thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW cũng như Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, Việt Nam phải thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu để đảm bảo môi trường đầu tư cạnh tranh, đủ để tiếp tục thu hút dự án lớn, công nghệ cao, hỗ trợ các đối tác mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, cũng cần có các ưu đãi khác thay vì ưu đãi thuế như hiện nay nhưng phải bảo đảm không vi phạm các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã chỉ ra một số tác động, cả tích cực và tiêu cực, đối với kinh tế Việt Nam từ thuế tối thiểu toàn cầu như: Cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; góp phần tăng nguồn thu từ thuế, hạn chế trốn, tránh thuế, chuyển giá…của các tập đoàn đa quốc gia; sức cạnh tranh trong thu hút FDI có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn khi chính sách ưu đãi thuế không còn tác dụng; có thể làm phát sinh một số chi phí; các nội dung về thuế tối thiểu toàn cầu được thống nhất về mặt nguyên tắc song một số nội dung vẫn được bảo lưu và chưa được quy định, hướng dẫn chi tiết có thể khiến hoạt động của các doanh nghiệp đa quốc gia bị ảnh hưởng.
"Việt Nam nên áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu với những bước đi chủ động; có giải pháp phù hợp để hỗ trợ một phần cho các đối tượng chịu tác động, song việc hỗ trợ phải theo những nguyên tắc như: Theo chuẩn của OECD, phân nhóm, phân ngành chứ không cào bằng, phải khả thi, phù hợp với chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài. Cùng với đó, sớm rà soát, cập nhật và thay đổi phù hợp quy định pháp luật liên quan; chủ động nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tạo đòn bẩy nâng cao sức chống chịu và phát triển kinh tế bền vững; nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, công tác cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh", TS Cấn Văn Lực kiến nghị.