Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho hay, trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển rất nhanh trong những năm gần đây, góp phần quan trọng tạo bước phát triển đột phá về năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế và nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
Nhằm xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển và ứng dụng AI tại Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì xây dựng dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 10. Đây là bộ luật mới liên quan đến vấn đề mới trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Để hoàn thiện dự thảo luật, bảo đảm tính hợp lý, khả thi của quy định, bảo đảm quyền và lợi ích của doanh nghiệp, cơ quan xây dựng dự thảo rất mong nhận được ý kiến từ chuyên gia kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp.
Quang cảnh hội thảo.
Nếu được Quốc hội thông qua, Luật Trí tuệ nhân tạo sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026. Trong 6 tháng kể từ ngày luật có hiệu lực, sẽ thành lập, kiện toàn Ủy ban Quốc gia về trí tuệ nhân tạo; ban hành văn bản hướng dẫn; đưa Quỹ Phát triển trí tuệ nhân tạo Quốc gia vào hoạt động.
Đại diện cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho biết, việc Quốc hội và Chính phủ chủ động xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo là một bước đi kịp thời, thể hiện tư duy kiến tạo thể chế, đón bắt xu thế công nghệ và khơi mở không gian đổi mới sáng tạo. Đây là đạo luật đầu tiên tại Việt Nam đặt nền móng pháp lý cho toàn bộ hệ sinh thái AI - từ phát triển, ứng dụng, đến quản lý rủi ro và bảo vệ quyền lợi người dân.
Ông Đậu Anh Tuấn bày tỏ kỳ vọng, dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo sẽ được góp ý trên tinh thần đảm bảo sự linh hoạt và thích ứng trong khung pháp lý, tránh quá cứng nhắc để không cản trở sự sáng tạo. Đồng thời, cần giảm bớt thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình đăng ký, công bố và triển khai. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng dữ liệu và năng lực tính toán để không phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài; cũng như, xác định rõ trách nhiệm pháp lý, cơ chế bảo hiểm và phân bổ rủi ro hợp lý, đi đôi với việc tiếp thu các bài học quốc tế, nhưng vẫn giữ được những điểm đặc thù riêng của Việt Nam.
Việc xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam là một bước quan trọng để tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của công nghệ này. Dự thảo luật đã được cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia đánh giá cao về tinh thần cầu thị và tính khoa học. Tuy nhiên, vẫn cần có những điều chỉnh và bổ sung để đảm bảo sự linh hoạt, giảm bớt thủ tục hành chính, tăng cường năng lực tính toán và xác định rõ trách nhiệm pháp lý. Quá trình xây dựng luật được thực hiện một cách nhanh chóng và cầu thị, thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan và sự lắng nghe ý kiến rộng rãi từ các bên liên quan.
“Tuy vậy, để Luật thực sự đi vào cuộc sống và trở thành động lực phát triển, chúng tôi xin lưu ý một số điểm lớn, Luật cần bảo đảm sự linh hoạt và thích ứng trong khung pháp lý. AI là lĩnh vực thay đổi nhanh, việc luật hóa cần đi kèm với cơ chế cập nhật, thử nghiệm và phản hồi chính sách hiệu quả. Quá cứng nhắc sẽ bóp nghẹt sáng tạo. Cùng với đó, cần giảm tối đa rào cản hành chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và startup. Các yêu cầu đánh giá sự phù hợp, đăng ký, công bố cần rõ ràng, minh bạch, và có lộ trình hợp lý. Việc triển khai Cổng thông tin điện tử một cửa là điểm sáng, nhưng cần đi kèm với quy trình đơn giản, minh bạch và thực sự phục vụ doanh nghiệp”, ông Đậu Anh Tuấn cho hay.
Cùng với đó, ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh, cần đầu tư nghiêm túc cho hạ tầng dữ liệu và tính toán – đây là "nhiên liệu" sống còn của AI. Không có dữ liệu chất lượng và năng lực tính toán đủ mạnh, chúng ta sẽ mãi phụ thuộc vào bên ngoài. Bên cạnh đó, cần xác định rõ trách nhiệm pháp lý, đặc biệt trong chuỗi giá trị AI - từ nhà phát triển, nhà cung cấp đến người triển khai. Việc Luật đề xuất trách nhiệm pháp lý khách quan với hệ thống rủi ro cao là phù hợp, nhưng cần làm rõ cơ chế bảo hiểm, giới hạn trách nhiệm và tiêu chí phân bổ rủi ro một cách hợp lý và thực thi được.
“Chúng tôi cũng mong Dự thảo Luật rút ra được bài học từ quốc tế – rằng không có “bản sao hoàn hảo”. EU, Mỹ, Trung Quốc hay Singapore đều theo đuổi các mô hình riêng, nhưng điểm chung là: tạo hành lang pháp lý đủ an toàn để đổi mới, và đủ minh bạch để kiểm soát rủi ro. Việt Nam cần chọn con đường phù hợp với mình - nhanh nhạy, nhưng không liều lĩnh; khuyến khích sáng tạo, nhưng không bỏ ngỏ trách nhiệm”, ông Đậu Anh Tuấn cho hay.
Ở góc độ chuyên môn, bà Trần Vũ Hà Minh, Cố vấn Trưởng về Trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm của FPT Software chia sẻ, Việt Nam hiện đang trong giai đoạn khởi đầu xây dựng và ứng dụng AI. Vì vậy, đây là cơ hội rất lớn để thiết kế hệ thống AI theo các tiêu chuẩn cao về quản trị và tuân thủ ngay từ đầu. Thị trường chatbot Việt Nam cũng đang cho thấy tiềm năng tăng trưởng mạnh. Nếu năm 2024, giá trị thị trường chatbot đạt khoảng 31,2 triệu USD thì dự báo sẽ tăng lên 207,1 triệu USD vào năm 2033 với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 18,50 %.
"Do đó, một trong những kiến nghị cấp thiết hiện nay là cần có hướng dẫn chuyển đổi số và chuyển đổi số theo đúng tiêu chuẩn, có trách nhiệm từ giai đoạn đầu triển khai. Cụ thể, khi doanh nghiệp mới bước vào AI, họ rất thường bắt đầu bằng chatbot hoặc các công cụ tương tác thông minh. Từ đây, Nhà nước nên sớm ban hành hướng dẫn cách triển khai chatbot hoặc các công cụ AI cơ bản sao cho tuân thủ các yêu cầu như minh bạch, bảo vệ dữ liệu, trách nhiệm giải trình", bà Trần Vũ Hà Minh nêu vấn đề.
Ông Trần Văn Trí, Giám đốc LuatVietnam đề xuất cần quy định rõ quyền sở hữu trí tuệ giữa nhà cung cấp, nhà phát triển, nhà triển khai; quy định rõ phạm vi và mức độ áp dụng AI phải gắn nhãn, cơ chế tiền kiểm cần linh hoạt để không làm chậm tiến độ ra mắt sản phẩm AI, quy định dẫn nguồn để dễ kiểm tra và đối chiếu.
Luật sư Hoàng Lê Quân (Công ty Luật Lexcomm) cho rằng dự thảo cần làm rõ hơn quy định về nghĩa vụ liên quan đến trách nhiệm minh bạch, gắn nhãn đối với hệ thống trí tuệ nhân tạo ("AI") và các nội dung (văn bản, hình ảnh, âm thanh, video) tạo ra bởi AI.
Ông Quân lưu ý, bản dự thảo gần nhất đã lược bỏ chi tiết “Chính phủ quy định chi tiết hình thức minh bạch, gắn nhãn, tiêu chuẩn kỹ thuật và các trường hợp miễn trừ hợp lý”, dễ gây hiểu lầm rằng doanh nghiệp tự quyết định cách thức gắn nhãn. “Các quy định nên được hài hòa với thông lệ quốc tế, như EU cho phép dùng nhãn vô hình (invisible watermark), để tránh tạo gánh nặng và đảm bảo tính cạnh tranh”, ông Quân đề xuất.
Về trách nhiệm giải trình, ông Quân cũng đề nghị làm rõ cơ chế để người dân thực thi quyền yêu cầu giải thích khi bị ảnh hưởng bởi quyết định của hệ thống AI - bao gồm quy trình, thời hạn và kênh tiếp nhận yêu cầu.