Tại Khoản 2, Điều 11, Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định: “Trong trường hợp vì mục đích nhân đạo, hòa bình, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, Cảnh sát biển Việt Nam được hoạt động ngoài vùng biển Việt Nam”.
Đây là điểm mới về phạm vi hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam quy định trong Luật là hoạt động ngoài vùng biển Việt Nam. Cụm từ “ngoài vùng biển Việt Nam” có thể được hiểu bao gồm: Các địa bàn liên quan và vùng biển ngoài vùng biển Việt Nam (đất liền, vùng biển quốc tế).
Điều 12 Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định rõ 7 biện pháp công tác Cảnh sát biển gồm: Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn trên biển theo quy định của pháp luật; Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quyết định việc sử dụng các biện pháp công tác Cảnh sát biển, chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về quyết định của mình.
Hiện nay, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về biện pháp công tác Cảnh sát biển. Quy định tại Điều 12 Luật Cảnh sát biển Việt Nam tạo cơ sở pháp lý để Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thể hiện đúng vị trí, vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật trên biển.
Đây là quy định mới, rõ ràng hơn so với Pháp lệnh năm 2008; khắc phục được bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành đang chưa có quy định về biện pháp công tác Cảnh sát biển. Bên cạnh đó, so với Pháp lệnh, Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định rõ ràng hơn về hợp tác quốc tế của Cảnh sát biển Việt Nam, bố cục một mục riêng, gồm ba điều về nguyên tắc, nội dung và hình thức hợp tác quốc tế tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi để Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện trách nhiệm quốc gia ven biển theo quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.