Kỳ cuối: Truy tìm kẻ đào tẩu
Theo Politico, không còn con đường khả thi nào khác để thoát khỏi những rắc rối của mình, ông ta đã lên kế hoạch khẩn cấp để đào tẩu.
Sử dụng máy ảnh mini Minox, ông ta chụp ảnh các tài liệu còn lại trong két sắt văn phòng, cất một số tài liệu tại một địa điểm cất giữ an toàn ở Warsaw, và cho phần còn lại vào ba phong bì để chuyển riêng từng phong bì đến khi mình ở Berlin.
Sau đó, ông ta đã rút 11.300 đồng Mark Đức từ các quỹ văn phòng và gửi một bức điện cho Irmgard, thông báo rằng mình sẽ đến Đông Berlin vào khoảng Năm mới, bảo người tình xin phép nghỉ từ ngày 3 đến ngày 8/1/1961.
Khi tới Berlin, Michal đã gặp người phụ trách ở Đông Berlin, đòi người này nhiều tiền hơn, sau đó trình bày hoàn cảnh của cuộc đào tẩu.
Trụ sở UB phát hiện ra Michal vắng mặt vào ngày 6/1. Họ không thấy ông ta đến điểm hẹn đã định với một trong những điệp viên Đông Đức của mình, và cũng không thể tìm thấy ông ta tại căn hộ Berlin mà ông ta thuê. Lúc đó, cả ngành tình báo Ba Lan báo động.
Đại tá Henryk Sokolac, Phó cục trưởng Cục 1, được điều động để truy tìm điệp viên mất tích. Ông phát hiện ra rằng lần cuối cùng họ thấy Michal là khi ông ta đang vội vã cùng Irmgard Kampf từ Wollinerstrasse đi về phía biên giới Tây Berlin. Ông đưa ra một kết luận không thể tránh khỏi: Michal đã đào tẩu, và chắc hẳn đã mang theo các mật mã của UB. Đây là danh sách tên vỏ bọc và tên thật của các điệp viên Ba Lan đang hoạt động ở phương Tây.
Phía Ba Lan ra lệnh điều tra khẩn cấp để xác định chính xác tài liệu tối mật mà Michal đã mang theo. Nhân viên kỹ thuật UB đã phá két sắt bị khóa trong văn phòng của Michal. Họ phát hiện ra rằng ông ta đã bí mật thu thập được một lượng lớn tài liệu trình bày chi tiết một số thông tin nhạy cảm nhất của cơ quan tình báo Ba Lan.
Các thông tin gồm quá trình hợp tác bí mật của cơ quan tình báo của Bộ Nội vụ với các bộ của chính phủ Ba Lan - cả quân sự và dân sự. Các tài liệu này cũng chỉ rõ mạng lưới các cộng tác viên bí mật hoạt động ở các nước phương Tây của UB.
Tệ hơn nữa, Michal còn có quyền truy cập dữ liệu về việc theo đuổi năng lượng hạt nhân của Ba Lan, cũng như thông tin bí mật về Quân đội Ba Lan. Việc Michal trao những bí mật này cho phương Tây là hành vi phản bội tàn khốc nhất từng xảy ra với tình báo Ba Lan. Một báo cáo đánh giá: “Việc tiết lộ thông tin trên cho đối phương đã làm tê liệt hoạt động của chúng ta và sẽ dẫn đến việc các cộng tác viên bí mật bị bắt giữ. Việc chuyển giao thông tin mật cho kẻ thù sẽ cản trở nghiêm trọng các cơ quan an ninh trong cuộc chiến phản gián và các hoạt động thù địch khác”.
Vào ngày 13/1, UB đã gửi điện khẩn tới các trưởng chi nhánh ở các nước, thông báo rằng Michal đã mất tích và được cho là đào tẩu. UB hướng dẫn họ cảnh báo các điệp viên cẩn trọng trong hành vi cá nhân ở mọi nơi, trấn an họ và không bình luận về vấn đề này để tránh rò rỉ.
Vấn đề đối với lãnh đạo tình báo Ba Lan và Liên Xô là không biết Michal đã đi đâu. Họ biết rằng Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) gần như chắc chắn đã đưa Michal đi và giấu trong một địa điểm an toàn ở một nơi nào đó ở Mỹ. Nhưng cho đến khi họ có thể lần ra vị trí chính xác của ông ta, cả Ba Lan và Liên Xô đều không có cách nào thi hành bản án tử hình của tòa án.
UB quyết định thực hiện cách tiếp cận kép. UB đã mở vụ án có mật danh TELETECHNIK và chỉ định các đặc vụ điều tra hai vấn đề riêng rẽ.
Việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là tìm xem Michal đang sống ở đâu. Các đặc vụ trên khắp nước Mỹ được giao nhiệm vụ khai thác mọi mối liên hệ có thể có trong chính phủ Mỹ để tìm đầu mối. Đồng thời, các đặc vụ ở Warsaw đã nhằm vào điểm yếu của kẻ đào tẩu.
Trong suốt thời gian trục trặc với vợ, Michal luôn liên lạc và hỗ trợ người mẹ góa bụa. UB cho rằng mặc dù ông ta có thể không liên lạc lại với vợ hoặc mấy người con, nhưng ở một thời điểm nào đó, ông ta sẽ điện thoại hoặc viết thư cho mẹ, bà Janina. Các cuộc điều tra kín đáo cho thấy mẹ Michal đã 62 tuổi, sống một mình trong một căn hộ nhỏ ở trung tâm thành phố và bà rất dễ khai thác. Bà ta uống nhiều rượu và có đời sống tình dục dày đặc. Tình báo Ba Lan bắt đầu tìm kiếm những người phù hợp để khai thác những điểm yếu trên của bà Janina, và thông qua họ để lừa bà này tiết lộ vị trí của con trai.
Vấn đề song song thứ hai tinh vi hơn. UB bắt đầu lên kế hoạch cho một chương trình cẩn thận và tinh vi nhằm làm mất uy tín của kẻ đào tẩu trong suy nghĩ của những người đã cho ông ta nương náu.
Vũ khí mà UB sử dụng để làm việc này chính là sự thật. UB phơi bày con người thật của Michal: bỏ rơi vợ con ở Warsaw; nói dối người tình Irmgard rằng ông ta được tự do kết hôn hợp pháp. Khi phơi bày thông tin này, UB có thể khiến CIA vướng vào một điệp viên có cuộc hôn nhân tai tiếng. Ngay khi Michal xuất hiện ở Mỹ, UB sẽ đảm bảo công khai thông tin về một kẻ nói dối không biết xấu hổ và khiến CIA thấy mình nhẹ dạ cả tin.
Cả tình báo Mỹ và kẻ đào tẩu Ba Lan đều không biết những gì mà Ba Lan đã lên kế hoạch. Mùa xuân năm 1961 đó, khi Michal và Irmgard tổ chức đám cưới vi phạm chế độ một vợ một chồng và định cư tại một căn hộ do CIA cấp ở Arlington, chiến dịch TELETECHNIK từ từ bắt đầu. Chiến dịch kéo dài gần một thập kỷ và cuối cùng đóng một vai trò quan trọng trong việc phá hủy uy tín của Michal.
Trong khi đó, các cơ quan phản gián trên khắp châu Âu và Trung Đông bắt đầu truy bắt những điệp viên quan trọng của khối Liên Xô mà Michal đã tiết lộ.
Phía Mỹ hứa cấp quyền công dân cho Michal. Tuy nhiên, một người đào đẩu khác xuất hiện và tìm cách thuyết phục CIA rằng mình mới là người đào tẩu thực sự, còn những người khác là giả.
Kết cục, CIA bắt đầu rút lại lời hứa hẹn với Michal, không gia hạn hợp đồng, cắt tiền thanh toán, thu cả khẩu súng đã cấp. CIA cũng biết tình báo Ba Lan đang truy tìm Michal. CIA còn nói với các bộ ngành là Michal mất trí, cho dù ông ta vẫn cung cấp thông tin đáng tin cậy cho CIA.
Bị CIA bỏ rơi, Michal lâm vào cảnh khó khăn tài chính và áp lực nặng nề, nhanh chóng trở nên hoang tưởng và mất trí thật. Michal sống phần đời còn lại ở New York tới khi chết năm 1993.