GS, PGS tăng đột biến: Vì sao các ứng viên ‘lo ngại’ quy định mới nhất?

Năm 2017 là năm cuối cùng xét công nhận đạt tiêu chuẩn GS, PGS theo quy định của việc bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư được quy định trong Quyết định số 174 năm 2008 của Thủ tướng. Dù dự thảo mới nhất về quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm GS, PGS chưa được thông qua nhưng những thay đổi về tiêu chuẩn và thủ tục được xem là khó khăn hơn cho các ứng viên khi thực hiện.

Lễ công nhận GS, PGS năm 2016.

Quy định chi tiết về công bố khoa học quốc tế

Nếu như Quyết định số 174 năm 2008 không quy định rõ về các công bố các công trình khoa học quốc tế, thì trong dự thảo mới lại quy định chi tiết, với những yêu cầu rất rõ ràng.

Cụ thể tiêu chuẩn chức danh GS yêu cầu các ứng viên phải từng tham gia xây dựng, phát triển chương trình đào tạo từ trình độ đại học trở lên, phù hợp với ngành khoa học đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS; được thẩm định bởi hội đồng khoa học do Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học thành lập và đưa vào sử dụng.

Đến năm 2019, ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ là tác giả chính và đã công bố được ít nhất hai bài báo khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus; hoặc ít nhất một bài báo khoa học thuộc hệ thống ISI, Scopus và một quyển hoặc chương sách phục vụ đào tạo được xuất bản bởi một nhà xuất bản có uy tín trên thế giới; hoặc ít nhất một bài báo khoa học thuộc hệ thống ISI, Scopus và một bằng độc quyền sáng chế.

Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn là tác giả chính và đã công bố được ít nhất một bài báo khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus.

Từ năm 2020, ứng viên phải có thêm ít nhất một bài báo khoa học theo quy định tại Khoản này.

Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ là tác giả chính hoặc chủ biên ít nhất một sách phục vụ đào tạo. Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn là tác giả chính hoặc chủ biên ít nhất ba sách phục vụ đào tạo, trong đó có một sách chuyên khảo và một giáo trình. Sách đã được hội đồng khoa học do Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học thành lập thẩm định và sử dụng để đào tạo từ trình độ đại học trở lên.

Với các công trình khoa học quốc gia, ứng viên chủ trì thực hiện ít nhất hai nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ hoặc cấp tương đương, hoặc một nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.

Hướng dẫn chính ít nhất ba nghiên cứu sinh đã có bằng tiến sĩ hoặc đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ theo quy định của pháp luật.

Ứng viên phải có tối thiểu 20,0 điểm công trình khoa học quy đổi trở lên, trong đó  có ít nhất 5,0 điểm được thực hiện trong 3 năm cuối tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ.

Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ phải có ít nhất 10,0 điểm tính từ các bài báo khoa học. Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn phải có ít nhất 8,0 điểm tính từ các bài báo khoa học;

Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ phải có ít nhất 4,0 điểm tính từ sách phục vụ đào tạo. Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn phải có ít nhất 6,0 điểm tính từ sách phục vụ đào tạo.

Các quy định về công bố công trình khoa học quốc tế với tiêu chuẩn chức danh PGS theo đó cũng được quy định rất chi tiết dù có giảm đi đôi chút.

Dự thảo đồng thời cũng quy định rất chi tiết về cách tính điểm quy đổi từ các công trình khoa học; bài báo khoa học, báo cáo khoa học và kết quả ứng dụng khoa học công nghệ, sách phục vụ đào tạo.

“Tăng điểm” ngoại ngữ

Yêu cầu “sử dụng thành thạo ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn” và “Giao tiếp được bằng tiếng Anh trong chuyên môn” vẫn được quy định trước đó, được cụ thể hóa trong bối cảnh hiện tại.

Theo đó, “sử dụng thành thạo ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn” được xác định khi đáp ứng một trong các điều kiện đã học tập, nghiên cứu toàn thời gian ở nước ngoài và được cấp bằng đại học, bằng thạc sĩ hoặc bằng tiến sĩ của cơ sở giáo dục đại học sử dụng một trong các ngôn ngữ Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật hoặc Trung Quốc trong đào tạo.

Ngoài ra, các ứng viên có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế TOEFL IBT với điểm tối thiểu là 65 hoặc IELTS với điểm tối thiểu là 5.5 có thời hạn không quá 2 năm tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ. Từ năm 2018 đến 2020, tăng thêm 5.0 điểm mỗi năm trên thang điểm TOEFL IBT, tăng thêm 0.5 điểm mỗi năm trên thang điểm IELTS mới được xem là sử dụng thành thạo ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn.

Bên cạnh đó, dự thảo quy định “giao tiếp được bằng tiếng Anh trong chuyên môn” tức là trao đổi (nghe, nói), trình bày, thảo luận trôi chảy, tự nhiên và độc lập, không sử dụng từ điển, không có sự trợ giúp của người khác; đọc hiểu và viết được các bài báo bằng tiếng Anh về các vấn đề liên quan đến chuyên ngành của ứng viên đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS.
 
Công khai hồ sơ ứng viên


Theo dự thảo, ứng viên thực hiện xét tại cơ sở giáo dục đại học theo kế hoạch hàng năm, căn cứ nhu cầu xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS, Hiệu trưởng quyết định việc thành lập Hội đồng GS cơ sở.

Hội đồng GS cơ sở có từ 9 - 15 thành viên. Để có đủ số lượng thành viên, Hiệu trưởng có thể mời GS, PGS ở trong và ngoài nước tham gia hoặc có thể liên kết với cơ sở giáo dục đại học khác để thành lập Hội đồng GS cơ sở.

Hội đồng Khoa học và Đào tạo của cơ sở giáo dục đại học đề cử thành viên tham gia Hội đồng GS cơ sở công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học.

Các thành viên Hội đồng trao đổi, thảo luận công khai, dân chủ về hồ sơ của ứng viên. Đánh giá và kết luận đối với từng hồ sơ. Trên cơ sở đó, mỗi thành viên Hội đồng viết bản nhận xét có ký tên, nêu rõ ưu, nhược điểm của từng hồ sơ.

Thông qua danh sách những ứng viên đủ điều kiện để đề nghị Hội đồng GS nhà nước xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS bằng hình thức biểu quyết hoặc bỏ phiếu công khai có ghi rõ họ tên của người bỏ phiếu.

Chủ tịch Hội đồng GS cơ sở chịu trách nhiệm tổng hợp kết quả xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS công bố công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học và báo cáo kết quả xét lên Hiệu trưởng.

Hiệu trưởng đề nghị Hội đồng GS nhà nước xét và công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS cho ứng viên.

Hồ sơ điện tử của ứng viên phải công khai trên Trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học (nơi nhận hồ sơ của ứng viên) và trên Trang thông tin điện tử của Hội đồng GS nhà nước.

Đây mới chỉ là 3 trong số nhiều thay đổi về quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn GS, PGS có liên quan trực tiếp đến quá trình hoàn thiện bản hồ sơ của các ứng viên.

Dự thảo Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố lấy ý kiến đóng góp từ tháng 1/2017.

Dự thảo này sau đó nhận được nhiều ý kiến trái chiều nên năm 2017 vẫn áp dụng tiêu chuẩn của quyết định 174 (năm 2008) để xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư.


Lê Sơn/Báo Tin tức
Giáo sư, phó giáo sư tăng bao nhiêu là đột biến?
Giáo sư, phó giáo sư tăng bao nhiêu là đột biến?

Năm 2017, tổng số giáo sư, phó giáo sư là 1.226 người; được xem là tăng đột biến so với các năm trước. Đã có thông tin cho rằng dường như có dấu hiệu không bình thường về một "đợt vét" trước khi có quy định mới về tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN