Nhà thơ Hoàng Trần Cương (ảnh) được biết đến là “dân” tài chính “thứ thiệt”, là chuyên viên cao cấp và có thâm niên trên 15 năm làm kế toán trưởng báo Nông nghiệp Việt Nam và Thời báo Tài chính Việt Nam, nguyên là Tổng Biên tập Thời báo Tài chính Việt Nam, Chủ tịch Liên chi Hội báo chí ngành Tài chính. Dù vậy, nhưng ông luôn thừa nhận, thứ giúp ông “sống” được đến ngày hôm nay lại chính là thơ. Ông đến với văn chương khá sớm và từng được giải A về văn xuôi đề tài lực lượng vũ trang (1970-1972) của Tạp chí Văn Nghệ quân đội, giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam (1989-1990). Nhưng phải đến trường ca “Trầm tích”, nhà thơ Hoàng Trần Cương mới thực sự tìm được chính mình. “Trầm tích” ngay sau đó đã đoạt được giải thưởng văn học (giải B, không có giải A) của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 2000).
Nhà thơ Hoàng Cầm, trong Hội thảo về tập thơ “Trầm tích” đã nói: “Lâu lắm tôi mới được đọc một tập sách dày dặn, chứa đựng sự thực lớn như thế này. Tác giả “Trầm tích” là một thi sĩ đích thực. Phải yêu quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương đến mức nào thì mới viết được đến thế. Đọc ứa nước mắt. Đây thực phải là con người miền Trung. Thơ Hoàng Trần Cương đậm đặc chất miền Trung, chất xứ Nghệ. Chúng ta có thể nhặt ra được nhiều câu thơ như những viên kim cương lấp lánh. Tôi đọc ba lần, lần nào cũng phát hiện được những chi tiết đắt giá. Với tôi, “Trầm tích” là một tác phẩm lớn, một tác phẩm còn lại của văn học Việt Nam sau 50 năm qua”.
Hoàng Trần Cưong nói: “Tôi gốc Nghệ, chôn rau cắt rốn ở mảnh đất nhiều thương khó này nhưng tôi lại trưởng thành ở Bắc Hà và đổ máu ở chiến trường miền Nam, tôi nghĩ, viết về miền nào cũng là điều không quan trọng vì cũng chính là Việt Nam đấy thôi. “Trầm tích” là những con chữ được lắng tụ khi những va đập với cuộc đời đã đến tận cùng. Thường trực trong tôi khi cất bút thành lời thơ, chính là những lúc cảm xúc hoặc là dâng đến tận cùng, hoặc rơi xuống đáy. Không có khoảng giữa”. Ông viết những câu thơ như rút ruột gan mình: "Ôi quê hương. Cái đòn gánh trĩu hai đầu đất nước. Gió bão thù chi với mảnh đất này. Nối đuôi nhau xếp hàng ngang đen sì ngoài biển. Mưa giờ ngọ chưa qua gió giờ mùi đã đến. Cay đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanh. Đất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh. Ngửng mặt nhìn trời xanh nhức mắt. Dằng dặc dải làng quê thưa thắt. Tảng cháy cạy đi rồi. Còn hằn vết móng tay. Cày lên. Sưng cả đáy nồi".
Dạo này, nhà thơ Hoàng Trần Cương hay ngồi một mình ở một quán bia gần nhà, không ồn ào, đông đúc, không những người bạn quen thuộc đã từng ngồi cạn với ông nhắm hết cả những buổi chiều thi ca. Tay ông vuốt vuốt chân mày dài rậm, miệng bắt đầu lẩm nhẩm những câu thơ quen thuộc: “Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt. Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ. Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ. Không ai gieo mọc trắng mặt người…”.
Trong ông giờ đây, dường như những ký ức về tuổi thơ, về mẹ, về quê hương cứ trở về đau đáu. Có lẽ chính bởi điều đó, trong nhiều chương đoạn của “Trầm tích”, nhà thơ Hoàng Trần Cương chủ yếu viết về mẹ. Với ông người mẹ là một nguồn thi hứng vô tận. Có lần ông nói: “Trái đất có nhiều tỉ người nhưng tôi chỉ có một bà mẹ, thế là bạn hiểu vì sao tôi yêu mẹ rồi đấy!”. Ông viết: "Để giữ lại dù chỉ vài mụn cám. Mẹ vén vun cưng nựng nụ cười. Trên gương mặt thời gian còn rác rưởi. Củ khoai ri gầy như sợi lạt. Mẹ tha về nhà. Chùm rễ trắng mọc vào đêm. Cái rễ khoai lang thành khúc ruột mềm. Chưa hề đứt. Nên bầy con không ngửa tay ăn mày ngoài chợ" hay: "Cái nón mê mẹ đội nửa đời người. Khi chóp thủng lại trùm lên vại nhút". Tuổi thơ nghèo đói, khiến nhà thơ Hoàng Trần Cương luôn bị ám ảnh ngay cả trong cuộc sống thường nhật. Có lần, người bán ngô dạo đi qua nhà ông cứ rao đi rao lại: “Ai ngô luộc không?”, khiến ông không chịu nổi. Ông gọi lại, mua hết cả nồi ngô ấy. Ông bảo, nỗi ám ảnh ngô, khoai, sắn của tuổi thơ khiến ông sợ cả tiếng rao!
Nhiều lúc tôi thấy gương mặt nhà thơ Hoàng Trần Cương khó đăm đăm, bây giờ nhìn ông, tôi càng thấy nó kín bưng không dễ gì hiểu nổi. Cõ lẽ ông đang đắm mình đầy trăn trở, đầy vò xé, đang đào xới, lục tung tâm hồn để đặt bút viết những vần thơ có thể thoát khỏi những “trầm tích” ký ức. Bảy tuổi đầu ông theo cha ra sống ở mảnh đất Hà Thành, rồi nhiều năm sau, ông đắm mình trong miền Kinh Bắc, cái vùng quê ngọt ngào đã mang đến cho ông một người vợ dịu hiền, tần tảo, nhưng cũng cho ông một tâm hồn “liền anh, liền chị”. Trong ông có cái lãng mạn của chất Bắc, nhưng lại có sự dữ dội của miền Trung. Ông lại là một người thương binh đi qua chiến trận, bàn tay ông từng vuốt mắt của bao đồng đội đã hy sinh. Hiển hiện trong ông là người mẹ, là những người thân, là mảnh đất cá gỗ, là vùng trời miền Trung và trên hết đó là những “trầm tích” của tổ tiên, dòng họ, là những tháng năm làm lính chiến, là hy sinh của bạn bè đồng đội, cả nỗi đau tê nhức của mảnh đạn vẫn đang nằm trong cơ thể ông... Tất cả những điều đó, với ông, nó có sức nặng bom tấn để từ trong trái tim ông ngân lên những khúc ca bi tráng: “Nhiều lúc anh muốn bứt đi dòng hồi tưởng của mình/ Những ký ức từng làm em sây xẩm/ Khi sốt rét quật anh ngã sấp/ Buổi động trời vết thương cũ nghiến răng/ Nhiều lúc một mình ngồi muốn nuốt chửng cả mùa trăng/ Khi rạng lên trong anh những gương mặt đã tản vào năm tháng/ Những chiếc áo của đồng đội anh nếu đem ghép lại/ Chắc cũng đủ căng lên thêm một bầu trời”...
Sự đeo bám của thi ca luôn khiến ký ức ông xù xì, đau đớn, như là một định mệnh của đất trời cứ gieo rắc vào ông. “Nàng thơ” đã mang lại cho ông nhiều thứ nhưng cũng đã lấy đi của ông không ít những hạnh phúc bình thường ở đời. Đôi lúc, thơ đã làm cho ông vật vã. Vớ được ngày nghỉ, gặp được bạn bè tâm giao ở một quán bia hơi nào đó là ông đọc thơ, đọc rất to, rất đắm đuối ở bàn nhậu. Ông thường xuyên vì bạn, vì thơ mà quên “vai vế” của mình. Và một khi thơ đã ngấm vào hồn là ông quên hết và có thể là... ngã khi vung tay, nhắm mắt lắc lư theo những vần điệu, cảm xúc. Hoàng Trần Cương là vậy, luôn như vậy, luôn được là chính mình với thi ca.
Cũng chính vì thế, ông có nhiều bạn, có những người bạn chân tình đến với ông vì yêu thích con người thơ Hoàng Trần Cương, cũng có người đến chỉ để uống bia miễn phí... Ông bất chấp tất cả, ông hào phóng với tất cả, miễn là ông cảm thấy mình được sống trong cảm xúc của thơ. Những lúc đó, gương mặt ông vô thường và dị nhân đến lạ, như ông nói: “Tôi nhiều lần nằm mơ thấy mình là đá và hơn một lần đứng trước đá, tôi tự hỏi, không biết liệu đá có buồn hơn không khi được ví là mình: “Mặt anh buồn như đá/ Ai vứt ra ngoài đồng”.
Sau ngày về hưu, ông dành thời gian để nghe “Câu ví dặm nằm nghiêng/ Trên nắng và dưới cát/ Đến câu hát cũng hai lần sàng lại/ Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm...”. Ông trở lại dòng Lam, lắng nghe lời núi sông, để viết tiếp những dòng thơ đang còn dang dở: “Thật ra mặt đất cũng là bầu trời/ Nới rộng vòng tay/ Sẽ có ngày với được/ Bởi quen ngước lên/ Anh thường không thấy/ Một thế giới mộng mơ ở ngay dưới chân mình...” .
Trần Hoàng Thiên Kim