Đây là mục đích và quan điểm xây dựng Luật Dầu khí (sửa đổi) được nêu rõ trong Tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 3. Theo chương trình, dự án Luật này được Quốc hội thảo luận tại hội trường ngày 15/6.
Luật Dầu khí được ban hành năm 1993, sửa đổi, bổ sung vào các năm 2000, 2008 đã tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành dầu khí trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động dầu khí cũng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập. Một số vấn đề thực tế phát sinh mang tính đặc thù của hoạt động dầu khí nhưng chưa được quy định cụ thể hoặc quy định chưa phù hợp với thực tiễn. Một số vấn đề đang được quy định tại các văn bản dưới Luật cần được quy định trong Luật Dầu khí để nâng cao hiệu lực thi hành và đảm bảo tính đồng bộ, tương thích với các Luật khác có liên quan.
Xuất phát từ thực tiễn quản lý, thực trạng thi hành pháp luật và bối cảnh tình hình hiện nay, việc xây dựng Luật Dầu khí (sửa đổi) để thay thế Luật Dầu khí năm 1993, năm 2000, năm 2008 là hết sức cần thiết, nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý Nhà nước, loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực dầu khí.
Dự thảo Luật gồm 11 Chương, 64 Điều; kế thừa các điều khoản cơ bản của Luật Dầu khí hiện hành, bảo đảm tính ổn định, liên tục của các hợp đồng dầu khí, Hiệp định đã ký kết; bảo đảm tính tương thích, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế.
Nội dung dự thảo Luật giải quyết 6 nhóm chính sách, cụ thể: Chính sách về bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng dầu khí; Chính sách quy định về điều tra cơ bản về dầu khí và trình tự, phê duyệt các bước triển khai hoạt động dầu khí, dự án dầu khí gồm các giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí; Chính sách quy định khung cho việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý; Chính sách về ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án dầu khí theo lô dầu khí thông qua hợp đồng dầu khí; Chính sách quy định về công tác kế toán, kiểm toán, quyết toán và xử lý chi phí trong hoạt động dầu khí; Chính sách quy định khung việc cho phép bên thứ ba tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí và nghĩa vụ chia sẻ công trình dầu khí, cơ sở hạ tầng sẵn có nhằm sử dụng tối ưu, hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư.
Nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Dầu khí (sửa đổi) theo mục đích, quan điểm đã nêu tại Tờ trình của Chính phủ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cơ quan thẩm tra cho rằng, nội dung dự thảo Luật phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013; tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Để bảo đảm hiệu lực thi hành của Luật sau khi được ban hành, cơ quan thẩm tra đề nghị rà soát, hoàn thiện đồng bộ dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật và dự kiến danh mục các văn bản hướng dẫn khác cần ban hành.
Liên quan đến điều tra cơ bản về dầu khí, Ủy ban Kinh tế đề nghị báo cáo rõ về trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện điều tra cơ bản về dầu khí, khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan này và nghiên cứu, bổ sung quy định rõ ràng, đầy đủ về: cơ chế thực hiện điều tra cơ bản về dầu khí; các tiêu chí, điều kiện xác định trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) thực hiện điều tra cơ bản về dầu khí; cơ chế thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia... Bên cạnh đó, cần quy định những nội dung cụ thể giao Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức thực hiện điều tra cơ bản về dầu khí.
Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị tiếp tục rà soát quy định về điều kiện tham gia đấu thầu lựa chọn nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí, nhất là điều kiện về “không đang trong thời gian bị cấm tham dự thầu”, quy định về “liên danh với các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện tham gia đấu thầu”; rà soát, nghiên cứu bổ sung quy định về: phương pháp và tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá hồ sơ dự tuyển, hồ sơ dự thầu; hủy thầu; xử lý tình huống lựa chọn nhà thầu; cấm tham gia dự thầu trong hoạt động dầu khí...