Những năm gần đây, mức sinh có xu hướng giảm xuống thấp. Ảnh minh họa: Thanh Tùng/TTXVN
Tại Hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh, vấn đề dân số luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm trong nhiều thập kỷ qua. Nếu trước đây, nước ta phải đối mặt với tình trạng mức sinh cao thì sau nhiều năm triển khai chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã từng bước kiểm soát thành công tốc độ gia tăng dân số và duy trì được mức sinh hợp lý trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, những năm gần đây, mức sinh có xu hướng giảm xuống thấp, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có mức sinh thấp trong khu vực. Sự khác biệt cũng rất rõ giữa các vùng, khi nhiều địa phương phát triển kinh tế mạnh lại có mức sinh thấp, trong khi một số vùng khó khăn vẫn duy trì mức sinh cao. Tình trạng già hóa dân số nhanh, mất cân bằng giới tính khi sinh và chất lượng dân số chưa được cải thiện cũng đang đặt ra những thách thức lớn cho phát triển.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học cho rằng, mức sinh ở Việt Nam hiện nay đang xuất hiện nhiều vấn đề bất cập. Ở các tỉnh, thành phố lớn và khu vực phát triển, mức sinh đã giảm xuống thấp hơn mức thay thế, dẫn đến nguy cơ suy giảm quy mô dân số, thiếu hụt lực lượng lao động trong tương lai và đẩy nhanh quá trình già hóa. Ngược lại, tại các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mức sinh vẫn duy trì ở mức cao, gây nên sự mất cân đối rõ rệt giữa các vùng, miền.
Sự khác biệt này phản ánh tính phức tạp của bài toán dân số ở nước ta. Không chỉ là vấn đề giảm sinh hay tăng sinh đơn thuần, mà còn liên quan trực tiếp tới an sinh xã hội, phát triển kinh tế và chất lượng dân số. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, gia tăng tảo hôn và sinh con ở tuổi vị thành niên càng làm bức tranh dân số thêm nhiều thách thức.
Để giải quyết những bất cập trong thực trạng hiện nay, cần có cách tiếp cận toàn diện và linh hoạt. Chính sách dân số phải được điều chỉnh phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng, đồng thời gắn với hệ thống phúc lợi xã hội, việc làm, giáo dục và chăm sóc sức khỏe, nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích trước mắt và lâu dài. Đồng thời, phải đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi hành vi; điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích, mở rộng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình và các dịch vụ liên quan; tăng cường đào tạo, nghiên cứu và hợp tác quốc tế để triển khai hiệu quả Chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030 - ông Chu Văn Tuấn nhấn mạnh.
Nêu giải pháp cho mức sinh thấp hiện nay, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học cho rằng, cần có những chính sách can thiệp linh hoạt, phù hợp với từng nhóm dân cư và từng vùng, miền. Tại những địa phương có mức sinh thấp, cần khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con thông qua các biện pháp hỗ trợ thiết thực như trợ cấp tài chính, ưu đãi về nhà ở, dịch vụ chăm sóc trẻ em, cũng như mở rộng chế độ nghỉ thai sản và tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sau sinh. Song song với đó, phải tăng cường hệ thống dịch vụ y tế, giáo dục, đồng thời cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội để giảm bớt gánh nặng chăm sóc con cái.
Việc thay đổi nhận thức xã hội về giá trị gia đình, khuyến khích nam giới chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cùng phụ nữ, tạo môi trường bình đẳng giới, từ đó giúp các gia đình yên tâm sinh con và nuôi dạy con tốt hơn. Đây là yếu tố then chốt để duy trì mức sinh ổn định và bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển lâu dài của đất nước.
Theo Tiến sĩ Hồ Ngọc Châm, Viện Xã hội học và Tâm lý học, áp lực cuộc sống hiện đại, sự gia tăng chi phí nuôi dạy con, điều kiện kinh tế chưa ổn định và thiếu hỗ trợ chăm sóc trẻ nhỏ khiến nhiều cặp vợ chồng trì hoãn hoặc hạn chế việc sinh con. Xu hướng cá nhân hóa và thay đổi quan niệm về giá trị của đứa con cũng góp phần thay đổi quan niệm truyền thống “đông con nhiều phúc”, nhiều gia đình ngày nay chú trọng hơn tới chất lượng nuôi dạy con. Đặc biệt, phụ nữ ngày càng tham gia sâu vào các hoạt động xã hội, có trình độ học vấn cao và khát vọng phát triển cá nhân lớn, nên thời gian dành cho việc sinh và nuôi con bị thu hẹp cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến mức sinh duy trì thấp và có xu hướng giảm thêm trong những năm gần đây.
Các đại biểu tham dự Hội thảo tập trung thảo luận sâu về những nguyên nhân dẫn đến mức sinh thấp ở Việt Nam và thống nhất cho rằng, cần tiếp cận vấn đề một cách toàn diện, không chỉ ở góc độ dân số mà còn gắn với các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhiều giải pháp được đưa ra như tăng cường các chính sách hỗ trợ tài chính, nhà ở, dịch vụ chăm sóc trẻ, cải thiện điều kiện làm việc cho phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới và thay đổi quan niệm xã hội về giá trị của con cái. Đồng thời, cần đẩy mạnh nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, song vẫn đảm bảo sự phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhằm duy trì mức sinh hợp lý, bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển bền vững đất nước.