Điểm độc đáo của bánh dày lá cẩm nằm ở nguyên liệu hoàn toàn từ tự nhiên – những “món quà” của núi rừng. Gạo làm bánh phải là nếp nương vùng cao, hạt tròn mẩy, dẻo và thơm. Lá cẩm, hay theo tiếng Tày gọi là “co khẩu đăm”, mọc nhiều ở vùng núi, có vị ngọt nhạt và tính mát, vốn được đồng bào dùng như một loại dược liệu thanh nhiệt, giải độc. Nhân bánh phổ biến nhất là vừng đen rang giã mịn, đôi khi được thay bằng lạc hay đỗ xanh tùy mùa vụ.
Màu tím thẫm đầy hấp dẫn của bánh dày lá cẩm được tạo nên từ nước lá cẩm nấu cô đặc. Khi hòa cùng mùi thơm của gạo nếp mới, nhân vừng bùi ngọt và chút đường nhẹ, bánh tạo nên hương vị khó quên. Người thưởng thức thường nhớ mãi cảm giác dẻo, mịn nơi đầu lưỡi và dư vị thơm còn vấn vít rất lâu sau khi ăn.
Du khách và phụ nữ Tày chuẩn bị xôi làm bánh dày lá cẩm tại thôn Pác Ngòi, Ba Bể.
Giã xôi nếp lá cẩm để làm bánh dày – công đoạn đòi hỏi sức mạnh và sự khéo léo.
Xôi nếp lá cẩm được giã khi còn nóng để đạt độ dẻo mịn chuẩn vị truyền thống.
Du khách quốc tế hào hứng trải nghiệm giã bánh dày bằng chày tre trong tại gian nhà sàn của Ba Bể Hada Homestay.
Không chỉ là món ăn quen thuộc trong các dịp rằm, lễ hội, tiệc cưới hay mâm cỗ truyền thống, bánh dày lá cẩm còn trở thành món quà biếu ý nghĩa nhờ hương vị độc đáo và màu sắc đẹp mắt. Với đồng bào Tày, món bánh này gắn với nhiều phong tục, đặc biệt là lễ mừng lúa mới, dịp để gia đình, dòng họ quây quần bên nhau, giã những mẻ bánh đầu mùa để dâng cúng tổ tiên.
Trong hành trình khám phá Ba Bể, du khách quốc tế được các hộ làm du lịch cộng đồng tổ chức trải nghiệm giã bánh ngay tại nhà sàn. Bên bếp lửa ấm, mọi người được hướng dẫn từng công đoạn: từ việc đồ xôi nếp, giã xôi bằng chày tre đến nặn bánh, thêm nhân và gói vào lá chuối. Những tiếng cười kéo dài suốt buổi khi nhiều vị khách lần đầu cầm chày, lúc vụng về, lúc hứng khởi, tạo nên bầu không khí gần gũi, thân tình.
Khi hoàn thiện, những chiếc bánh dày lá cẩm ánh tím mềm mịn được bày ra mâm, tỏa hương thơm đặc trưng của nếp mới hòa với vị ngọt bùi của nhân vừng. Với nhiều du khách, khoảnh khắc ấy không chỉ là thưởng thức một món ngon, mà còn là cơ hội chạm vào tinh hoa ẩm thực được gìn giữ qua nhiều thế hệ của đồng bào Tày.
Phụ nữ Tày hướng dẫn du khách quốc tế nặn những chiếc bánh dày lá cẩm màu tím đặc trưng.
Nhân vừng đen được thêm vào giữa lớp bột nếp tím trong công đoạn làm bánh.
Những chiếc bánh dày lá cẩm mềm mịn sau khi được nặn, chuẩn bị đem thưởng thức.
Du khách hào hứng khoe thành phẩm là những chiếc bánh dày lá cẩm tím bắt mắt.
Bánh dày của người Tày cũng đa dạng về màu sắc nhờ biến tấu từ thiên nhiên. Màu đỏ từ lá cẩm đỏ, màu vàng từ củ nghệ, màu xanh từ lá nếp, màu đen từ tro rơm… Tất cả được tạo ra bằng cách đun hoặc giã lá, củ để lấy nước màu, rồi ngâm với gạo nếp qua đêm trước khi đồ xôi. Những nguyên liệu này đều được trồng ngay quanh nhà, sẵn sàng hái dùng mỗi khi làm bánh.
Giã bánh dày là công đoạn đòi hỏi sức và sự nhịp nhàng. Hai người phải phối hợp ăn ý, giã liên tục khi xôi còn nóng để bột đạt độ dẻo và mịn. Sau khi giã, bột được vo tròn, ấn dẹp và gói bằng lá chuối đã hơ qua lửa cho mềm. “Miếng bánh vừa giã xong luôn là miếng ngon nhất”, người Tày vẫn nói như thế.
Du khách khéo léo cho nhân vừng vào bánh dưới sự hướng dẫn của người dân địa phương.
Đặc biệt, bánh dày nhân vừng đen là loại bánh gắn bó chặt với đời sống người Tày. Vừng được gieo từ tháng 3 thu hoạch vào khoảng tháng 7, rang trên lửa nhỏ rồi giã nhuyễn, trộn với mật mía, thứ mật do chính người dân tự nấu từ mía trồng trên nương. Nhân vừng trộn mật mía thơm ngọt, khi kết hợp với vỏ bánh dẻo nóng, tạo nên hương vị hoàn chỉnh không thể nhầm lẫn.
Ngày nay, bánh dày không chỉ xuất hiện trong các dịp lễ tết hay cưới hỏi mà còn trở thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn. Nhiều hộ gia đình làm homestay, du lịch cộng đồng đưa hoạt động giã bánh dày vào chương trình trải nghiệm, giúp du khách hiểu hơn về văn hóa ẩm thực bản địa. Trong các tour du lịch cộng đồng tại Bắc Kạn, mâm cơm đón khách luôn có những chiếc bánh dày nhiều màu sắc, như lời giới thiệu mộc mạc mà chân thành về quê hương người Tày.
Du khách thưởng thức bánh dày lá cẩm ngay sau khi hoàn thiện.
Từ những nguyên liệu bình dị, qua đôi bàn tay khéo léo và sự gìn giữ văn hóa của đồng bào, bánh dày lá cẩm đã trở thành biểu tượng của tình cảm, sự gắn kết và bản sắc nơi núi rừng Ba Bể.
Theo Điều 4 của Luật Di sản: "Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Nhân dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ di sản văn hóa thuộc hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung theo quy định của Hiến pháp, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan".
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.