Theo ông Lê Đức Thịnh, dự kiến đến năm 2030 sẽ có khoảng 100.000 doanh nghiệp nông nghiệp, 30.000 hợp tác xã, 70.000 tổ hợp tác và 70.000 trang trại nông nghiệp.
Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp dự kiến sẽ hình thành 13 sản phẩm chủ lực cấp quốc gia; từ 200-300 sản phẩm chủ lực cấp vùng và tỉnh; khoảng 2.500 sản phẩn nông nghiệp của địa phương, sản phẩm OCOP. Do đó, nhu cầu đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn là rất lớn.
Trong giai đoạn 2020-2030, để tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt trên 5%/năm; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt từ 55-65%.
Ông Lê Đức Thịnh cho rằng, năm 2020 cần xây dựng bộ dữ liệu đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn trong bối cảnh đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Cùng với đó, xây dựng đề án đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm của ngành trong giai đoạn 2021-2030 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; xây dựng chương trình, tài liệu khung với nội dung phù hợp với yêu cầu thực tiễn về sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, ưu tiên các chương trình đào tạo về nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp số và khởi nghiệp cho lao động trẻ.
Về hình thức đào tạo, ông Lê Đức Thịnh cho hay, cần tiếp tục coi trọng việc hỗ trợ đào tạo tại các doanh nghiệp, hợp tác xã và các dạng thực hành tại nơi sản xuất là chính; khuyến khích xã hội hóa và nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề. Mỗi địa phương có từ 1-2 đơn vị đào tạo gắn với thực tiễn, theo nhu cầu đặt hàng của địa phương.
Chia sẻ tại hội thảo, bà Valentina Barcucci, chuyên gia kinh tế lao động, Phó giám đốc Văn phòng ILO Việt Nam khuyến nghị, cần đưa hệ thống khuyến nông và hệ thống giáo dục nghề nghiệp lại gần nhau hơn. Việt Nam cần có sự công nhận, chứng chỉ đào tạo nghề. Người lao động có thể sử dụng chứng chỉ đào tạo ở mọi nơi và có thể tiếp tục nâng cao mức độ cấp chứng chỉ thông qua hệ thống công nhận kỹ năng. Do đó, Việt Nam cần xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho các nghề đào tạo.
Theo đại diện Học viện Nông nghiệp Việt Nam, trong giai đoạn tới, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông nghiệp cần tập trung đào tạo cho lao động nông thôn theo nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã, xu hướng phát triển của nông nghiệp hiện nay. Ưu tiên đào tạo nghề theo quy chuẩn, đào tạo nghề: chế biến, bảo quản thực phẩm. Tăng cường đào tạo nghề dài hạn, tăng số thời gian thực hành nghề tại các doanh nghiệp, trang trại… Đa dạng hình thức dạy nghề, đổi mới nội dung dạy, có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, hợp tác xã với cơ sở đào tạo nghề.
Trong giai đoạn 2011-2015, đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã hỗ trợ đào tạo cho gần 1,15 triệu lao động, đạt 75% kế hoạch. Sau học nghề đã có gần 873.000 lao động (84%) được đào tạo có việc làm mới hoặc nâng cao hiệu quả của việc làm cũ.
Trong giai đoạn 2016-2019, có 1,15 triệu lao động nông thôn được đào tạo, đạt 82% kế hoạch của giai đoạn 2016-2020. Trong giai đoạn này, các địa phương đã lựa chọn các ngành nghề đào tạo đáp ứng yêu cầu sản xuất của nông dân, phát huy hiệu quả sản xuất, chú trọng các ngành nghề chủ lực là thế mạnh gắn với tái cơ cấu nông nghiệp; gắn đào tạo nghề với quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa, mô hình khuyến nông, dự án phát triển sản xuất tạo việc làm cho lao động nông thôn.
Việc đào tạo cơ bản đảm bảo mục tiêu về số lượng lao động được đào tạo nghề quy định trong Quyết định 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” và Quyết định 971/QD-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1956/QĐ-TTg góp phần nâng cao tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo.
Cụ thể, năm 2008 đạt 12%, năm 2016 đạt 34,14%, năm 2018 là 38,6%. Một số địa phương có tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao như Hậu Giang 64%, Phú Yên 60%...
Tuy nhiên, tình trạng đào tạo “cung” chưa khớp với “cầu” còn phổ biến, chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo nghề trong nông nghiệp cho lao động nông thôn với quá trình tái cơ cấu ngành và xây dựng nông thôn mới. Một số nơi chưa thực hiện tốt việc khảo sát nhu cầu học nghề, chuyển đổi nghề của lao động, từ đó chưa phát huy việc đào tạo gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh kế, chuyển dịch lao động.
Việc dạy và học nghề ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, cá biệt còn có tình trạng chạy theo số lượng, tập trung cho giải ngân, chưa quan tâm đến chất lượng và nhu cầu chất lượng lao động của doanh nghiệp, hợp tác xã và nhu cầu học nghề của người lao động. Tình trạng “dạy chay”, “học chay” vẫn phổ biến.
Việc đào tạo gắn với hợp tác xã, doanh nghiệp, đào tạo cho lao động trong vùng sản xuất hàng hóa, sản xuất công nghệ cao, lao động là xã viên hợp tác xã, trang trại còn thấp. mới chỉ có 260.000 lao động (chiếm 24%) lao động là thành viên hợp tác xã, trang trại và lao động có liên kết với các hợp tác xã để tiêu thụ sản phẩm.