Trận thắng Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên trở thành đòn đánh chí mạng, bắt đầu cho sự thất bại liên tiếp của quân địch, mở ra những chiến thắng ròn rã của quân và dân ta với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc toàn thắng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, từ lịch sử đến hiện tại, Buôn Ma Thuột luôn mang trên mình “sứ mệnh” to lớn trong tiến trình phát triển của đất nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Buôn Ma Thuột được lựa chọn là “đòn điểm huyệt” chiến lược giúp non sông thu về một mối. Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, nơi đây đã và đang được Bộ Chính trị định hướng, xây dựng trở thành đô thị trung tâm vùng Tây Nguyên, lan tỏa sự phát triển ra toàn vùng.
Phóng viên TTXVN tại Đắk Lắk thực hiện loạt 3 bài viết với chủ đề “50 năm Chiến thắng Buôn Ma Thuột” nhằm ôn lại những trang sử hào hùng, tầm vóc lịch sử của Chiến thắng Buôn Ma Thuột, phản ánh toàn diện sự phát triển của vùng đất này trong thời kỳ mới.
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các điểm cao ở Pleiku trong Chiến dịch Tây Nguyên, mở màn Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ảnh: TTXVN
Bài 1: Mốc son chói lọi nên trang sử vàng
Cuối năm 1974, cục diện chiến trường miền Nam có nhiều chuyển biến, thế và lực của địch ngày càng suy yếu, trong khi đó các lực lượng cách mạng ở miền Nam liên tục giành thắng lợi. Do đó, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam và xác định “Nếu thời cơ đến vào đầu năm hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”, đồng thời quyết định chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của Chiến dịch Tây Nguyên – mở màn cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Lịch sử đã chứng minh, “đòn điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột làm lung lay chế độ ngụy quyền Sài Gòn, tạo đà cho quân ta thần tốc tiến công và giành thắng lợi trong Chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975 - giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, góp phần làm nên mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc.
"Đòn điểm huyệt” chiến lược
Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, để đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ cho trận quyết chiến chiến lược ở Buôn Ma Thuột, từ đầu năm 1975, bộ đội chủ lực của ta ở Tây Nguyên đã tiến hành kế hoạch nghi binh tài tình, thu hút sự ứng phó của địch ở Bắc Tây Nguyên với một loạt hoạt động quân sự trên chiến trường, tạo ra thế chia cắt Tây Nguyên với đồng bằng, chia cắt phía Nam với phía Bắc Tây Nguyên và hoàn toàn bao vây, cô lập thị xã Buôn Ma Thuột.
Đến ngày 17/3/1975, các mục tiêu phụ cận của địch đã bị đánh chiếm hoàn toàn, trận tiến công thị xã Buôn Ma Thuột kết thúc thắng lợi. Trong ảnh: Xe tăng quân giải phóng tiến vào thị xã Buôn Ma Thuột. Ảnh: TTXVN
Đúng 2 giờ 3 phút ngày 10/3/1975, từ các hướng, quân ta nổ súng tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Với sự kết hợp giữa quân chủ lực và bộ đội địa phương, quân ta nhanh chóng tiêu diệt nhiều cứ điểm của địch ở thị xã. Đến 10 giờ ngày 11/3/1975, quân ta làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột.
Những ngày tháng 3 lịch sử này, Trung tướng, Tiến sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đoàn Sinh Hưởng (người trực tiếp tham gia trận Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắk Lắk) thăm lại chiến trường xưa và nhớ về trận đánh “để đời” trong thời binh nghiệp.
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng – chỉ huy đội hình xe tăng nhớ lại, trong trận đánh Buôn Ma Thuột, Đại đội 9 do ông chỉ huy gồm 10 xe tăng T-54B và 10 xe K-63, được tổ chức thành 4 thê đội. Đúng 5 giờ 30 phút ngày 10/3/1975, từ các hướng, xe tăng và binh chủng cơ giới của ta mở hết tốc lực, theo đường trinh sát đã đánh dấu, xông ra khỏi rừng, tiến thẳng về phía thị xã Buôn Ma Thuột. Các loại hỏa lực và ánh đèn pha sáng rực của xe tăng làm bùng lên ý chí, quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ ta, khiến kẻ thù hoang mang, khiếp đảm.
“Theo kế hoạch chiến đấu, thê đội 1 dẫn đầu đột phá vào cửa mở, thê đội 2 thọc sâu vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 Ngụy. Bị dồn vào chân tường, địch chống cự quyết liệt. Đến tối 10/3, toàn bộ lực lượng đột kích thọc sâu gồm Đại đội 9 và bộ binh đã áp sát Sư đoàn 23 Ngụy. Đến 6 giờ ngày 11/3, Đại đội 9 sẵn sàng xuất kích thì phát hiện xe quân sự địch từ vườn cà phê tiến ra phản kích. Ngay lập tức, tôi ra lệnh cho các xe nổ súng chiến đấu khiến 1 xe M-113 và 1 xe M-41 của địch bốc cháy, quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Sau đó, xe tăng Đại đội 9 tiếp tục lao lên đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 - sào huyệt cuối cùng của địch ở Buôn Ma Thuột. Đến 10 giờ ngày 11/3, các hướng, mũi đồng loạt tiến công vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày, Đại đội 9 rải ra chốt giữ những vị trí khống chế địch, hỗ trợ các chiến sĩ Tiểu đoàn 4 nhanh chóng hạ cờ chính quyền Sài Gòn, kéo cờ giải phóng lên trong niềm vui hân hoan chiến thắng”. Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng xúc động nhớ lại.
Phát huy lợi thế trên chiến trường, Tỉnh ủy Đắk Lắk lãnh đạo các huyện sử dụng lực lượng địa phương, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, truy quét tàn quân địch, phá ấp chiến lược để nhân dân quay về buôn làng cũ.
Tại các căn cứ H9 (huyện Krông Bông), H11 (huyện Krông Pắc), H4 (Quận Buôn Hồ)… quân và dân ta lần lượt tiến công, làm tan rã các căn cứ của địch. Đến ngày 24/3/1975, tỉnh Đắk Lắk hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắk Lắk trở thành “quả đấm thép” làm lung lay chế độ Ngụy quân, Ngụy quyền.
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự nhận định: Chiến thắng Buôn Ma Thuột là “đòn điểm huyệt” bất ngờ, gây “choáng váng” đối với chính quyền, quân đội Sài Gòn; làm đảo lộn thế bố trí phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, buộc địch phải rút bỏ Tây Nguyên – đây là căn nguyên dẫn đến hàng loạt sai lầm của địch. Đồng thời, tạo điều kiện cho quân ta tiến công như thế “chẻ tre”, tạo thế và lực, bước nhảy vọt về chất của cách mạng miền Nam - “một ngày bằng hai mươi năm”. Điều này càng khẳng định đòn tiến công thị xã Buôn Ma Thuột ở chiến trường Tây Nguyên thực sự là “đòn phủ đầu” đối với chế độ Ngụy Sài Gòn. Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã “điểm đúng huyệt” và tạo ra đột biến về chiến dịch, dẫn đến đột biến về chiến lược, tạo thời cơ cho những trận then chốt tiếp theo.
“Bàn đạp” giải phóng miền Nam
Thắng lợi to lớn, toàn diện trong trận Buôn Ma Thuột đã tạo ra đột biến về chiến lược, làm xuất hiện thời cơ để giải phóng hoàn toàn miền Nam nhanh hơn, chín muồi hơn.
Theo Đại tá, Tiến sĩ Lê Thanh Bài, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự, Chiến thắng Buôn Ma Thuột buộc địch rút khỏi Tây Nguyên về đồng bằng. Quân và dân ta tiến công dồn dập, đến ngày 3/4/1975, Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, 5 tỉnh Tây Nguyên được giải phóng. Quân ta phát triển xuống duyên hải Nam Trung Bộ phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương giải phóng Quy Nhơn (ngày 31/3/1975), Tuy Hòa (ngày 1/4/1975), Nha Trang ( ngày 2/4/1975).
Trước diễn biến của tình hình Chiến trường Tây Nguyên, ngày 18/3/1975, trong cuộc họp của Bộ Chính trị đã bổ sung quyết tâm chiến lược “Giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, chuyển tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành Tổng tiến công chiến lược”.
Phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên, quân và dân ta tiến công giải phóng Trị Thiên - Huế (ngày 26/3/1975), Đà Nẵng (ngày 29/3/1975) - đập tan tập đoàn phòng ngự mạnh của quân đội Sài Gòn ở khu vực miền Trung, làm phá sản âm mưu co cụm chiến lược; tạo nên vùng hậu phương hoàn chỉnh, tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhanh chóng đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh - Đại tá, Tiến sĩ Lê Thanh Bài cho biết.
Như vậy, Chiến thắng Buôn Ma Thuột trở thành “bàn đạp” để quân và dân ta tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa nong sông thu về một mối. Đây là chiến thắng oanh liệt, là một mốc son chói lọi góp nên trang sử vàng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc với đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh - chấm dứt 21 năm quân, dân ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, khẳng định tính chân lý trong lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Bài 2: “Chữa lành” vết thương chiến tranh