Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp: 'Thế hệ vàng' của Thông tấn xã Việt Nam

Tốt nghiệp khóa 7 Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường KHXH&NV Hà Nội), Cử nhân trẻ Nguyễn Thế Nghiệp theo học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí Khóa 7 do Việt Nam Thông tấn xã tổ chức năm 1965. Đến nay, ông đã tròn 60 năm gắn bó với nghề báo, trong đó có 38 năm công tác tại cơ quan Thông tấn Quốc gia.

Hướng tới kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Thông tấn xã Việt Nam (15/9/1945 - 15/9/2025), chúng tôi tìm về gặp gỡ nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp, “thế hệ vàng” trong lịch sử cơ quan Thông tấn Quốc gia.

Ở tuổi 83, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp vẫn giữ nguyên nụ cười hào sảng, lời kể chuyện mộc mạc thân tình. Hồi tưởng lại chặng đường làm báo đã qua, nụ cười, ánh mắt của ông luôn ngời lên niềm vui, niềm tự hào được làm việc tại TTXVN - Cơ quan báo chí lớn của Đảng và Nhà nước, được thỏa sức đam mê lửa nghề, cống hiến.

Video chia sẻ của nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp:

Trưởng thành từ quê hương Bác

Sau khi hoàn thành lớp phóng viên Khóa 7, ông được cơ quan cử đi thường trú tại Nghệ An - Khu IV. Những năm tháng đầu thường trú, cuộc sống vô cùng thiếu thốn, đến chiếc xe đạp cũng chưa có. Một kỷ niệm khiến ông nhớ mãi là lần dự và đưa tin “Khai giảng năm học trong bom đạn tại quê Bác” ở Trường cấp 2 Kim Liên, huyện Nam Đàn cũ.

Đêm trước hôm đi tác nghiệp, ông hồi hộp đến mất ngủ. Ông nhờ bà chủ nhà sơ tán, sáng hôm sau nấu cơm, nắm cho ông một nắm. Trời chưa sáng, mặc chiếc quần vá gối, vá mông, đeo túi do mẹ cắt từ ống quần rách, khâu lại; tay xách toòng teng nắm cơm. Để tránh máy bay Mỹ, ông đi tắt qua cánh đồng lúa, đi qua Truông Bồn, nơi có tiểu đội nữ thanh niên xung phong làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông. 

Buổi lễ khai giảng hôm ấy vẫn in sâu trong ký ức ông. Giữa hầm hào, trong bom đạn, lãnh đạo tỉnh, huyện và nhiều ngành vẫn có mặt động viên thầy trò. Đặc biệt, ông bất ngờ được Hiệu trưởng mời phát biểu trước toàn trường. Chưa từng đứng trước đông người, lại có mặt nhiều lãnh đạo, ông thoáng chần chừ nhưng rồi tự nhủ không được phép từ chối. Bằng tất cả xúc cảm, ông nói về ý nghĩa của một năm học mới trong khói lửa, ca ngợi thầy và trò Kim Liên với tinh thần thép, quyết tâm “dù bom rơi, đạn nổ vẫn dạy tốt, học tốt”, kiên cường vượt qua âm mưu của kẻ thù muốn đưa miền Bắc “trở về thời kỳ đồ đá”.

Chú thích ảnh
Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp chia sẻ một kỷ vật ông từng sử dụng trong những ngày làm công việc thường trú.

Bốn năm thường trú tại Nghệ An, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp đã đến tác nghiệp tại huyện Mường Lống (cũ), một “tiểu Sa Pa” giáp Lào, núi cao, mây mù gần như quanh năm. Ông theo Chủ tịch UBND tỉnh Chu Mạnh đến các vỉa than vùng núi Tương Dương, đến nhà máy xi măng sơ tán trong hang đá lớn tại huyện Anh Sơn (cũ). Địa danh ông đến nhiều nhất là huyện cực bắc Quỳnh Lưu cũ, qua Diễn Châu, Nghi Lộc, thành phố Vinh, dọc tuyến đường 1, nơi có nhiều cầu phà, trọng điểm máy bay Mỹ đánh phá thường xuyên. Có khi ngủ trong các lán dựng tạm ngoài đồng ruộng cùng bà con giáo dân Xã Đoài, Nghi Lộc để lấy tư liệu viết tin tố cáo máy bay Mỹ trút bom đạn xuống khu vực nhà thờ công giáo. 

Ông Nghiệp còn nhớ những ngày tác nghiệp ở đầu cầu Bến Thủy cùng phóng viên ảnh Phan Huy, sống cùng chiến sĩ pháo cao xạ 37 ly chờ săn tin bắn rơi máy bay Mỹ; hay những đêm thức trắng bên đơn vị phà quyết tử, đưa xe chở bộ đội và vũ khí vượt sông trong khi thủy lôi chưa kịp phá. Có lần, ông cùng cánh lái xe được bữa cơm đạm bạc trong ánh đèn dầu leo lét tại “Quán cơm ba đảm đang” của bà La Thị Tám, hình ảnh đến nay vẫn làm ông xúc động.

Những năm tháng lửa đạn ấy, bằng niềm đam mê và tinh thần phóng viên chiến trường, ông đã viết nhiều tin bài kịp thời phản ánh cuộc chiến đấu, phục vụ chiến đấu và lao động sản xuất ở tuyến lửa Nghệ An. Với tác phong chuẩn mực, “vừa hồng, vừa chuyên”, ông vinh dự được Chi bộ Ban Tuyên huấn, Tỉnh ủy Nghệ An kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 27/2/1969.

“Giúp bạn như giúp mình” tại Lào

Khi đã quen địa bàn công tác, quen công việc thường trú tại Nghệ An, ông Nguyễn Thế Nghiệp bất ngờ nhận điện của lãnh đạo cơ quan yêu cầu trở về nhận nhiệm vụ mới. “Được đi B chăng? Ôi, thỏa nguyện ước mơ bấy lâu!”, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp thầm nghĩ. 

Ông vẫn nhớ bữa cơm chia tay tại Nghệ An hôm ấy có sự hiện diện của lãnh đạo tỉnh, Hội phụ nữ. Bà Đông, Chủ tịch Hội phụ nữ, xúc động nói: “Chúng tôi coi anh em Phân xã như người nhà từ lâu rồi. Nay lãnh đạo cơ quan Thông tấn xã cử anh Nghiệp đi B, bước vào môi trường công tác mới, chúng tôi chúc anh sức khỏe, may mắn và luôn nhớ tới Tỉnh Hội, nhớ tới quê hương thứ hai Nghệ An…”.

Ngày hôm sau, ông Nghiệp trình diện tại Tổng xã. Gặp Thủ trưởng, người vốn rất thương, rất hiểu những phóng viên thường trú vất vả, ông được ân cần căn dặn: “Bốn năm ở Nghệ An, anh đã đủ lông đủ cánh, nay cần bay xa hơn. Nghiệp có nguyện vọng đi B, cơ quan rất hoan nghênh. Nhưng hiện tại lực lượng phóng viên trong đó đã đủ. Trong khi đó, cách mạng Lào đang phát triển, rất cần phóng viên tin, ảnh, cán bộ kỹ thuật có nghề sang giúp. Ở bên đó đã có các anh Đặng Kiên, Đỗ Văn Phượng, Nguyễn Hữu Công… Lãnh đạo cơ quan muốn cử Nghiệp sang Lào. Nếu Nghiệp đồng ý, phòng Tổ chức sẽ làm quyết định và các thủ tục cần thiết, như chuyển hộ khẩu, chuyển sinh hoạt Đảng, chuyển lương sang Ban công tác Miền Tây Trung ương (CP38)”.

Chú thích ảnh
Những hình ảnh tư liệu quý về quãng thời gian chuyên gia Việt Nam Thông tấn xã (nay là Thông tấn xã Việt Nam) giúp đỡ Thông tấn xã Pathet Lào những năm 1970. 

Sau đó, ông được bồi dưỡng chính trị và tiếng Lào tại Văn Côn (Hoài Đức cũ, Hà Nội). Ban ngày học nghị quyết, tìm hiểu tình hình và phong tục tập quán các bộ tộc Lào, ban đêm hành quân rèn thể lực. “Ngày lên lớp, tối đeo ba lô xếp đầy gạch bên trong hành quân dọc bờ sông Đáy. Những ngày đầu mang vác 18 viên gạch, một bao ruột tượng cát đi 10 cây số. Khi đôi chân đã dẻo, vai đã chịu đựng, tôi cùng những người bạn thi nhau mang vác nhiều hơn, đi xa hơn. Có đêm đeo cả gạch cả cát tới 30 cân, hành quân dọc sông Đáy vài chục cây số. Người đau ê ẩm nhưng ai cũng vui, vì có khổ luyện ở hậu phương mới vững vàng nơi chiến trường”, ông Nghiệp chia sẻ.

Chuyến hành quân sang bên kia biên giới năm 1970 in đậm trong ký ức ông: Xe Gat trở đoàn chuyên gia, được bịt kín vải bạt, ngụy trang như một lùm cây chạy theo quốc lộ 1A đi Thanh Hóa dưới ánh sáng lập loè của pháo sáng, đèn dù máy bay Mỹ. Qua khe hở bên thành xe, ông nhìn thấy chiếc cầu sắt bị bom đạn đánh sập, những chiếc phà dã chiến mọc lên gấp gáp nối liền đôi bờ để kịp đưa người và vũ khí ra mặt trận. Xe chạy thâu đêm, nhiều đoạn độc đạo, cheo leo trên đèo núi hiểm trở. Có lúc như đi trên mây, nhìn xuống dưới ánh sáng đèn dù, chỉ thấy vực sâu hun hút.

Đến cửa khẩu Na Mèo trời vừa sáng, đoàn tạm nghỉ trong những lán dựng giữa rừng. Lần đầu tiên, ông được đắm mình trong không gian núi rừng trùng điệp: Suối nước trong róc rách chảy qua khe đá, chim hót líu lo giữa tán lá xanh. Nhưng ngay trong sự bình yên ấy, tiếng gầm rú của máy bay phản lực, tiếng bom xé toang bầu trời lại chốc chốc vang lên. Khi mặt trời lặn sau dãy núi phía tây, bóng đêm phủ kín Na Mèo. Đoàn xe bật đèn gầm, chập chờn như những con đom đóm, vượt cửa khẩu, men theo đường 217 tiến vào Hủa Phăn.

“Tới đèo Papông, mọi người phải xuống đi bộ để giảm tải cho xe vượt dốc hiểm. Chạy qua 40 cây số đường ổ voi, hai bên còn chi chít hố bom, những cánh rừng bị bom Napan đốt trụi. Chúng tôi tới trạm đón tiếp ở Phạ Đeng, nơi lán trại và kho hàng đều đặt trong hang đá. Ở đó, anh Tưởng Duy Thuyết, cán bộ kỹ thuật của khối Thông tấn ra đón, đưa về đại bản doanh Phu Khe. Từ Phạ Đeng, chúng tôi vác lương thực, muối, cá khô, thịt hộp trèo qua ba ngọn núi, lần theo đường mòn rừng dài hơn 10 cây số”, ông Nguyễn Thế Nghiệp nhớ lại.

Nơi làm việc của đoàn chuyên gia Thông tấn nằm sâu trong hang đá. Máy phát tin, máy nổ, máy chữ… đều đặt trong hang; bên ngoài chỉ dựng thêm vài lán tạm cho phóng viên, biên tập tác nghiệp. Máy bay Mỹ lượn đảo, bắn rốc-két, mọi người lại sơ tán vào hang. Không chỉ ở Phu Khe, cả chiến khu cách mạng Mường Viêng Xay có hàng trăm hang lớn, được công binh cải tạo, làm bệnh viện Xiêng Luông nối liền ba quả núi, có phòng khám, phòng X-quang, kho thuốc và có tới 50 giường bệnh; hang làm hội trường Đảng, hang đặt xưởng sửa chữa ô tô…

 “Tôi và Trần Oanh bổ sung vào tổ phóng viên, biên tập. Công việc hằng ngày là ‘Ta làm, bạn xem, rồi ta, bạn cùng làm”. Ngoài làm tin, anh em còn phải vào rừng kiếm củi, lấy măng, chặn suối lấy nước, khai hoang bãi đất ven suối trồng rau, vì ‘Cơm không rau như người đau không thuốc’. Ở chiến khu Sầm Nưa bấy giờ, phải tự chăm lo sức khỏe, hạn chế ốm đau, có như vậy mới giúp bạn lâu dài”, ông Nghiệp kể.

Ông Giang Đức Tuệ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình, lãnh đạo đoàn chuyên gia tuyên huấn, thăm chuyên gia Thông tấn xã, tặng mấy câu thơ: “…Nhà hang đốt củi thay đèn/Cơm vui cá mắm, trà quen lá rừng/Đèo cao dốc thẳm muôn trùng/Đôi chân vạn dặm ta từng vượt qua/Đúng hàm cố vấn, chuyên gia/Toàn cầu chỉ có chúng ta một thời”.

Chú thích ảnh
Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp phỏng vấn đồng chí Saman Vinhaket, nguyên Chủ tịch Quốc hội Lào.

Không chỉ dừng lại ở việc trao đổi nghiệp vụ tại Phu Khe, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp còn cùng đồng nghiệp Lào đeo ba lô, vác súng, “cuốc bộ” đến các trận địa pháo, xưởng máy, bệnh viện, trường học, bản vùng cao để ghi chép tư liệu, viết tin. Ông nhớ mãi lần đến thăm một xưởng dệt lớn đặt trong hang núi ở huyện Mường Xôi (Lào). Hơn 40 máy kéo sợi, máy dệt cùng kho nguyên liệu, kho hàng đều đặt sâu trong hang. Công nhân chủ yếu là nữ; nam giới đảm nhận việc nặng như chạy máy nổ, khuân vác. Thời chiến, cả gia đình (vợ chồng, con cái, cha mẹ già) cùng vào hang sống. Ngoài giờ làm, phụ nữ đeo gùi đi hái rau rừng, bắt nhái; đàn ông xuống suối quăng lưới bắt cá hoặc mang súng vào rừng săn thú. Bữa cơm giản dị, thường chỉ có xôi trong ống nứa, chấm với ớt và vài nắm lá rừng cho đỡ xót ruột.

Đến xưởng cơ khí Mường Xôi, ông lại chứng kiến các chuyên gia cơ khí Việt Nam sát cánh cùng bạn Lào miệt mài sản xuất dao, cuốc, lưỡi cày, cào cỏ… - những nông cụ thiết thực phục vụ tăng gia sản xuất. Nhờ đó, cán bộ, công nhân tự túc rau màu, bà con nông dân có thêm nông cụ sản xuất. Ở các bản người Thái ven suối, ông còn thấy những cánh đồng lúa chiêm vàng óng chưa từng có trước kia. Nếu trước đây bà con chỉ trồng được một vụ lúa mùa, thường thiếu đói, thì nay nhờ cán bộ Việt Nam hướng dẫn làm thủy lợi nhỏ, đưa nước suối vào ruộng, cấy lúa chiêm. Người dân Mường Xôi, Sầm Tớ không chỉ đủ gạo ăn mà còn góp gạo ủng hộ cơ quan, bộ đội trong tỉnh.

“Những ghi chép từ các chuyến đi cơ sở, tôi cùng bạn bàn cách sàng lọc chi tiết, chọn chủ đề để viết tin. Tôi viết, bạn viết, rồi cùng góp ý, chỉnh sửa. Tin cuối cùng được in trên Bản tin tiếng Lào và phát sóng Đài phát thanh Pathet Lào. Làm việc chung, tôi học được nhiều từ mới và cách diễn đạt của người Lào”, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp chia sẻ.

Sau 5 tháng thích nghi với công việc chuyên gia tại Lào, ông được Trưởng đoàn chuyên gia Thông tấn Đặng Kiên cùng cơ quan tín nhiệm, cử đi công tác tại Tổ 37, tỉnh Khăm Muộn (Trung Lào). Khi ấy, cách mạng Lào đang phát triển nhanh, vùng giải phóng mở rộng, trong khi mảng tin địa phương còn mỏng, cần được tăng cường.

Ký ức Tổ 37 - Cận kề với bom đạn

Tháng 8/1970, từ Sầm Nưa, ông trở lại Hà Nội. Khi các chuyên gia Tổ 37 đã tập trung đông đủ, chiếc xe Gat chở đoàn lăn bánh. Đến cửa khẩu Cha Lo, ông cùng đồng nghiệp khoác ba lô, ngụy trang bằng cành lá xanh, đi bộ men theo trục đường 12 xuyên suốt huyện Lằng Khằng (Lào). Dọc đường, hố bom chưa kịp san lấp, rừng già bị bom phá trụi, bom phát quang, bom Napan thiêu cháy tan hoang. Không một bóng người, không một đàn trâu bò. Dân bản phải lánh vào hang đá, nơi ông chứng kiến cảnh đau lòng: Một quả tên lửa Mỹ bắn trúng cửa hang khiến người già, trẻ em chết ngạt trong đó.

Tổ 37 đóng quân trong một hang đá tự nhiên, còn hoang sơ, chưa được cải tạo như ở Sầm Nưa. Anh em chặt cây làm sàn nằm, chỗ cao chỗ thấp, phải leo cầu thang hay men vách đá mới sang được nhau. Chỗ rộng nhất dưới sâu làm nhà ăn, nơi giao ban, họp hành. Mưa lớn, nước ngập, mọi sinh hoạt phải dồn lên những “tổ chim” dựng tạm trong hang.

Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp kể: “Lúc đó, tôi và Hiệp điện báo được chuyển sang ở cạnh hang của Ban Tuyên huấn tỉnh Khăm Muộn. Việc đầu tiên là chặt cây dựng khung làm chỗ ngủ. Ăng-ten mắc trên ngọn cây cao ngoài cửa hang, máy thu phát tin 15W đặt trong hang. Bản tin viết bằng tiếng Lào, phải qua la-tinh hóa mới phát morse về Tổng xã Khu Khe. Đến giờ liên lạc, bạn Lào lại cử thêm hai thanh niên tới quay gavonô cùng chúng tôi”.

Nơi làm việc luôn trong vòng vây bom đạn. Máy bay Mỹ liên tục quần thảo, bắn rốc-két, thả bom bi. “Nhiều lần ăng-ten đứt, chúng tôi lại phải trèo lên cây cao mắc lại. Không ít lần bom bi mẹ nổ ngay cửa hang, tung chùm bom bi con lăn xuống tận nơi chúng tôi đang làm việc. Gà, lợn nuôi ngoài cửa hang, nhiều con mất xác”, ông Nghiệp nhớ lại.

Mùa mưa, nước từ đại ngàn đổ xuống, lòng chảo ngập trắng. Đi ra khỏi hang, phải cởi quần áo đội trên đầu, tay bám thân cây mà lội. Mùa khô, cả lòng chảo khát nước, các chuyên gia phải đi sâu vào hang tối tìm nước. Ông Nghiệp kể: “Mỗi lần lấy nước, vai gánh đôi xô, một tay bám thang cây, một tay cầm đuốc cà boong, dò từng bước xuống tận cùng hang. Nước múc vào xô, lại lóp ngóp lên, trượt ngã, rồi đứng dậy bò lên. Mỗi ngày, hai, ba lần như thế. Nước chỉ để nấu ăn, rửa mặt. Còn tắm giặt phải sang hang tỉnh đội, hoặc đi bộ 5 cây số tới bản Huội Dền. Lần nào đến bản, phò Kẹo đều mời chúng tôi lên nhà, mời cơm nước, coi chúng tôi như con cháu trong nhà. Có mớ rau, quả trứng cũng san sẻ…”.

Chú thích ảnh
Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp vinh dự được trao tặng Huân chương Ít-xa-la hạng Nhất năm 1982.
Chú thích ảnh
Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp thăm Thông tấn xã Pathet Lào (KPL) ngày 28/12/2022.

Những lần về “Tổng hành dinh” họp giao ban, nhận khẩu phần lương thực, thực phẩm, ông một mình lặng lẽ đi theo đường mòn trong rừng, mặc dù có súng ngắn bên người, đôi khi vẫn thấy rờn rợn hiểm nguy rình rập. Bởi máy bay Mỹ thường xuyên đánh bom. Bọn thám báo biệt kích từ vùng kiểm soát tạm thời ở Thà Khẹt lẻn về phá hoại. Từ Tổng hành dinh về, trên vai thường khoác ruột tượng gạo 20 cân, một ba lô đựng đầy cá khô, thịt hộp. Cực nhất là phải trèo qua một vách đá lên cửa hang ở xưởng in, rồi dò từng bước trên một thân cây bắc qua hang. Không còn biết chân run hay thân cây rùng mình. Chỉ một tích tắc bất cẩn là có thể cả người và thực phẩm lộn xuống đáy hang lởm chởm mũi đá phía dưới”, ông nhớ lại.

Gian khổ là thế, nhưng ông luôn tự nhủ phải kiên cường. Ông thương mình một, ông lại thương bố mẹ, vợ con ở quê nhà gấp mười: Không biết ở quê nhà, mọi người có khắc phục được khó khăn khi thiếu vắng người trụ cột trong gia đình?... Để anh em nơi chiến trường không đứt liên lạc với hậu phương, Tổ 37 lập “Tốp cảm tử” hằng tháng băng rừng ra Cha Lo nhận thư. Có bức đến chậm cả năm, mực đã nhòe, giấy cũng nhàu, nhưng đó vẫn là niềm vui, là nguồn an ủi lớn nơi lắm bom đạn chiến trường.

Cánh thư ấm lòng trên đất bạn

Cầm trên tay bức thư đầu tiên của người vợ hiền gửi tháng 2/1971, ông Nguyễn Thế Nghiệp không giấu nổi niềm hạnh phúc và xúc động. Trong thư, vợ ông viết: “Em đã có thai, thỏa lòng mong đợi của hai chúng ta. Mẹ lại mới về Chí Linh. Hàng ngày em vẫn đạp xe đi các xã ngoại thành làm tin. Tối về mệt, chẳng muốn ăn. Giá mà anh ở nhà, đỡ đần em nhiều việc thì vui quá. Nói vậy thôi. Anh cứ an tâm công tác giúp Lào. Mọi việc ở cơ quan, gia đình, em sẽ lo thay anh”.

Bức thư thứ hai báo tin vui: “Em đã sinh con gái, nặng 3,5 kg. Giống anh như đúc. Em nhường cho anh đặt tên cho con đấy. Mẹ ở Chí Linh đã lên Hà Nội giúp đỡ mẹ con em rồi. Anh cứ yên tâm công tác”.

Và lá thư thứ ba vợ ông tâm sự: “Máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội ác liệt quá. Người già trẻ em đều phải sơ tán. Em được cơ quan cử đi thường trú ở Hà Bắc. Mẹ và con gái Ngọc Diệp cho về quê. Nhưng em nhớ con quá, như người mất hồn ấy. Em phải nhờ bác Tân, bác Mạch đèo mẹ và con lên ở nhờ nhà bà Thiệp, gần phân xã. Hằng ngày xong công việc, em lại về với con. Con bụ bẫm, khôi ngô, biết hát nhiều bài lắm. Trẻ con hàng xóm thường kéo đến nghe con hát. Bao giờ anh về, tha hồ mà nghe con hát”. 

Khoảng thời gian đó, như đã thành thói quen, xong công việc, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp lại mang những lá thư của vợ ra đọc, vơi bớt nỗi nhớ nhà. Ông thương vợ gánh vác công việc ở cơ quan, gia đình, nuôi con thơ và chăm sóc mẹ già trong thời loạn lạc mà thiếu vắng sự sẻ chia từ chồng. “Tình yêu của Dự dành cho tôi và tình yêu của tôi với gia đình, với nghề tin thông tấn đã tiếp cho tôi thêm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ của một chuyên gia thông tấn giúp Thông tấn xã Lào”, ông Nghiệp nói.

Chú thích ảnh
Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp luôn có người vợ tảo tần, thủy chung ở bên, là điểm tựa tinh thần vững chắc giúp ông hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà cơ quan giao phó.

Không chỉ có tình yêu từ hậu phương, ông còn nhận được sự đùm bọc, tin yêu từ bà con nước bạn. Một lần theo đơn vị vũ trang thâm nhập vùng địch trong chiến dịch 972, ông cùng đồng đội mang theo máy phát tin, súng AK, gạo, muối, thịt hộp hành quân ngày đêm trong rừng già. Ban ngày vượt núi cao, lội suối sâu, mồ hôi ướt đẫm, vai đau nhức như dần. Đêm ngủ võng, lót lá khô… nơi dừng chân lại đào hầm, đắp bếp Hoàng Cầm để “đi không dấu, nấu không khói”.

Có đêm hành quân gấp, khát nước đến “cháy cả cổ” mà không được phép vào bản xin nước, ông và đồng nghiệp vội múc vũng nước bên bìa rừng uống ừng ực. Sáng ra mới hay đó là vũng trâu đằm. Nhắc lại, ông cười, giơ chiếc bi đông kỷ niệm: “Ghê ghê trong cổ như muốn nôn, nhưng không nôn được”.

Trong những ngày đi cắm cờ Mặt trận Lào yêu nước dọc sông Mê Công, ông càng thấm thía tình nghĩa của dân bản. Họ bí mật tiếp tế cơm, nước, trao từng nắm xôi nóng, gói thịt trâu nướng, cá nướng, chuối chín…“Tại bản Đon Khiểu, có mẹ Bun thương yêu, chăm sóc chúng tôi chu đáo. Chiều tối mẹ ra rừng đưa cho chúng tôi những bộ quần áo của dân bản thường mặc, cải trang làm dân bản và đưa chúng tôi ra tắm ở sông Mê Công, điều mà không một ai trong chúng tôi nghĩ tới khi tham gia chiến dịch 972”, nhớ lại kỷ niệm xưa, ông Nghiệp vẫn cảm thấy ấm lòng.

Những lần tác nghiệp cùng các đơn vị vũ trang, hành quân thần tốc theo các mũi tiến công, nhưng nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp vẫn kịp gửi về Tổng xã Phu Khe chùm tin nóng hổi: Cụm cứ điểm ở sân bay Tha Khet bị đập tan, Quân đội giải phóng Lào đã kiểm soát hoàn toàn tuyến đường 13 từ Tha Khet đến Xê Nô, Nhân dân hai huyện Thà Khet, Noỏng Bốc thiết lập chính quyền mới.

“Tin phát về Phu Khe buổi chiều, bản tin tối của Đài Tiếng nói Việt Nam đã đọc. Nghe hết những tin chúng tôi gửi đi từ mặt trận, đồng chí cán bộ chính trị Quân Khu IV phấn khởi tìm đến, bắt tay chúng tôi và nói: ‘Các cha mần răng mà nhanh hầy’. Nắm chặt tay đồng chí, tôi đáp: Đó là công việc của chúng tôi. Tin Thông tấn mà anh”, nhà báo Thông tấn xã tự hào nói.

Sau Hiệp định Viêng Chăn (21/3/1973), Mỹ cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ Lào, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp trở về Thông tấn xã Việt Nam, tiếp tục miệt mài với công việc thông tin quốc tế, trong đó có bản tin phổ biến về Lào.

Chú thích ảnh
Ở tuổi 83, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp vẫn say sưa viết sách, truyền lại cho thế hệ sau.
Chú thích ảnh
Nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp tặng sách cho Nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Lào Sounthone Khanthavong.

Ông Nghiệp nhớ lại: “Với sự hỗ trợ của nhiều đơn vị quân chủ lực Việt Nam, năm 1975, quân và dân Lào đồng loạt nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Nhu cầu thông tin kịp thời về tình hình Lào khi đó rất lớn. Tôi làm tin cung cấp cho Bản tin phổ biến Thế giới của TTXVN và anh Nguyễn Quốc Uy, anh Vũ Thế Nùng làm Bản tin đối ngoại tiếng Anh của KPL tại Hà Nội…”.

Không chỉ dừng lại ở những bản tin quốc tế phổ biến, ông còn là cây bút đáng tin cậy trong mảng viết về Lào và mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Nhờ nguồn tin phong phú cùng kinh nghiệm tổng hợp dày dặn, nhiều biên tập viên trang quốc tế của các tờ báo thường tìm đến ông để đặt bài. Với ông, viết không chỉ là công việc, mà còn là một phần đời sống. Ngoài “tám tiếng vàng ngọc” ở cơ quan, về nhà ông lại lặng lẽ ngồi vào bàn viết. Sau này, khi nghỉ hưu, ông vẫn giữ thói quen ấy. Mỗi chuyến đi từ Trà Cổ, Hạ Long, Điện Biên, Đà Nẵng, Côn Đảo, Hải Thịnh cho đến những lần trở lại chiến trường Lào năm xưa đều trở thành chất liệu để ông viết bài, gửi đăng báo.

Ông cũng dành nhiều tâm huyết cho sách. Nhiều tác phẩm ra đời như “Vững bền hơn núi hơn sông”, “Hùng xám đường số 4”, “Có một thời như thế”, “Bạn văn của tôi”. Đặc biệt, tiểu thuyết “Tứ tổng” tái hiện sinh động phong trào đấu tranh cách mạng của quân dân vùng  quê Tứ Tổng (Tứ Liên, Tây Hồ cũ), với những con người kiên trung, mưu trí, dũng cảm và nghĩa tình.

Nhìn lại chặng đường nửa thế kỷ cầm bút, nhà báo Nguyễn Thế Nghiệp chia sẻ “Làm báo, trước hết phải có nghề, phải học bài bản về ngữ văn, nghiệp vụ. Phải đam mê và có trách nhiệm công dân. Có như thế mới giữ được cái danh, cái phận của mình, của một nhà báo trưởng thành từ Thông tấn xã Việt Nam”.

Hồng Phượng/Báo Tin tức và Dân tộc
Hãng thông tấn quốc gia Venezuela đề cao vai trò của TTXVN
Hãng thông tấn quốc gia Venezuela đề cao vai trò của TTXVN

Được thành lập 13 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, trong 80 năm qua, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) không chỉ là chứng nhân ghi chép lịch sử cách mạng Việt Nam qua các cuộc kháng chiến trường kỳ, cũng như đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, mà còn là một phần quan trọng của quá trình lịch sử đầy hào hùng đó.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN