Đây là sự kiện văn hóa lớn của tỉnh nhằm tôn vinh công lao của Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, đồng thời giới thiệu, quảng bá những giá trị văn hóa, kiến trúc tiêu biểu, độc đáo của Di tích lịch sử đền Bà Triệu và tiềm năng du lịch của Thanh Hóa với bạn bè trong nước, quốc tế.
Lễ hội đã diễn ra với các nghi thức truyền thống như lễ trình cáo, tế lễ, lễ yên vị và dâng hương tại đền thờ, khu lăng mộ Bà Triệu, đình làng Phú Điền, rước kiệu Bà, trình tấu Chúc văn trên đền Bà...
Phần hội là chương trình sân khấu hóa do các nghệ sĩ Nhà hát nghệ thuật truyền thống Thanh Hóa trình diễn, tái hiện hình tượng Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh trong cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Đông Ngô.
Phát biểu tại buổi lễ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Phạm Đăng Quyền khẳng định: Lễ hội Bà Triệu thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tri ân, tôn vinh trước những cống hiến, hy sinh lớn lao của Bà Triệu và các nghĩa sỹ đối với công cuộc dựng nước, giữ nước của dân tộc ta; đồng thời khơi dậy nét đẹp văn hóa, truyền thống lâu đời đậm đà bản sắc xứ Thanh. Đây cũng là hoạt động thiết thực chào mừng kỷ niệm 990 năm Danh xưng Thanh Hóa.
Bà Triệu (tên húy là Triệu Thị Trinh) sinh ngày mồng 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (năm 226) ở vùng núi Quan Yên, quận Cửu Chân (nay là huyện Yên Định). Bà là người giỏi võ nghệ, có khí phách hiên ngang. Đất nước lúc bấy giờ bị giặc Đông Ngô chiếm đóng, dân chúng sống trong cảnh lầm than. Không cam chịu ách đô hộ tàn bạo của giặc Đông Ngô, dù mới 17-18 tuổi, Triệu Thị Trinh đã cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập trung lực lượng, dấy binh khởi nghĩa ở vùng núi Quan Yên, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng tham gia.
Cuộc khởi nghĩa của anh em Bà Triệu đã giành được nhiều thắng lợi, làm chấn động Giao Châu, là nỗi khiếp sợ của quân giặc. Sau khi anh trai mất, Triệu Thị Trinh được nghĩa quân tôn làm chủ tướng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Bà Triệu cùng tướng sỹ lập căn cứ tại núi Tùng ở thôn Bồ Điền (nay thuộc làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc) để luyện tập quân sỹ và chống giặc.
Uy danh của Bà Triệu và nghĩa quân đã khiến giặc Ngô phải thốt lên rằng: “Vung tay đánh cọp xem còn dễ, đối diện Bà Vương mới khó sao”. Trước sự lớn mạnh của nghĩa quân, năm Mậu Thìn (năm 248) triều Đông Ngô đã cử một đạo quân hùng mạnh gồm 8.000 quân sĩ, có cả chiến thuyền yểm trợ tiến vào nước ta để đối phó với khởi nghĩa Bà Triệu.
Sau nhiều tháng vây hãm với hơn 30 trận đánh lớn nhỏ, giặc Ngô vẫn không đánh bại được nghĩa quân. Cuối cùng quân Ngô đã dùng mưu kế thâm hiểm để đối phó nghĩa quân Bà Triệu. Để giữ khí tiết anh hùng, Bà Triệu đã tuẫn tiết hy sinh trên đỉnh núi Tùng vào ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn (năm 248), khi vừa mới 23 tuổi.
Mặc dù cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu bị thất bại nhưng đây là mốc son đỉnh cao khẳng định sự nổi dậy mạnh mẽ của nhân dân ta ở thế kỷ II - III, thúc đẩy ý chí quật cường cho nhân dân ta với quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược trong suốt thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc.
Hình ảnh người nữ tướng Anh hùng Triệu Thị Trinh khi ra trận mặc giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng ra trận và câu nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, làm cho trời yên biển lặng, cứu vớt dân lành, chứ đâu giống như người đời cúi đầu khom lưng làm tì thiếp cho người ta” đã trở thành biểu tượng cho lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược của nhân dân ta.
Tưởng nhớ công ơn của bà, nhân dân đã lập đền thờ, xây lăng mộ Bà trên đỉnh núi Tùng, xây dựng đền thờ Bà Triệu trên núi Gai và dựng một ngôi đình lớn ở giữa làng Phú Điền, tôn bà làm Thần hoàng làng và quanh năm hương khói thờ Bà (3 địa danh này đều thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa).
Các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều cho tu sửa đền miếu, ban sắc phong và quy định tế lễ với nghi thức quốc lễ. Năm 1979, đền thờ và lăng mộ Bà ở xã Triệu Lộc đã được xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt cho Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Khu Di tích Bà Triệu.