Theo các chuyên gia kinh tế, lưu vực sông Đồng Nai (ĐN) có tác động trực tiếp đến hầu hết các tỉnh miền Đông Nam bộ về tài nguyên nước, nguồn điện năng, giao thông thủy... Đây là khu vực có tốc độ phát triển cao nhất nước về công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên, con người vẫn chưa đối xử công bằng với những gì thiên nhiên đã ban tặng mà đang dần phá vỡ sự cân bằng sinh thái của sông ĐN.
Năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 187 phê duyệt “Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai” bao gồm những tiêu chí cụ thể cho các tỉnh, thành căn cứ thực hiện. Bốn năm trôi qua, đã có hàng loạt thông tư hướng dẫn, cuộc họp triển khai... nhưng thực tế môi trường nước lưu vực sông ĐN được cải thiện tới đâu thì chỉ những người dân trong vùng chịu ảnh hưởng là “thấm thía” hơn cả.
Nhọc nhằn nghề cá
Buổi sáng, làng cá bè trên sông Cái (một nhánh của sông ĐN) khá im ắng. Chỉ có tiếng sủa bâng quơ của các chú chó được chủ bè nuôi bảo vệ cá khi thấy bóng người. Tại đây thời cực thịnh, nghề nuôi cá bè trên sông trở thành nguồn lợi mang lại sự sung túc cho hơn 100 hộ với số lượng gần 1.000 bè. “Nhưng đó là thời điểm của 10 năm về trước, 5 năm gần đây số lượng chỉ gần 600 bè với 52 hộ nuôi. Nếu không lỗ hoặc trắng tay do cá chết thì lợi nhuận cao lắm cũng chỉ bằng 1/3 so với thời gian trước. Hiện chúng tôi chỉ chủ yếu lấy công làm lời, lỡ đổ vốn cả trăm triệu vào đây nên bắt buộc phải sống chết với nghề thôi”, chị Lưu Thị Dung, chủ nuôi cá bè có số lượng vào loại lớn nhất nhì trên sông Cái than thở.
Nước ô nhiễm, cá chết hàng loạt..., việc nuôi cá bè trên sông Đồng Nai ngày càng vất vả hơn. |
Quê ở TP Hồ Chí Minh, theo chồng về ĐN lập nghiệp với nghề nuôi cá bè hơn 10 năm nhưng chưa bao giờ chị Dung quên thời điểm cá chết đồng loạt cách đây hơn một năm làm hàng loạt hộ phá sản, nợ nần chồng chất. Lúc ấy, không khí buồn bã bao trùm cả làng cá bè thuộc phường Thống Nhất, TP Biên Hòa (ĐN). Theo các ngành chức năng, chỉ tính từ tháng 6/2010 đến nay, đã có hơn 10 đợt cá bè của người dân bị chết với tổng số lượng hàng trăm tấn cá. Chị Dung cho hay, hiện tình hình chỉ cải thiện chút ít so với khoảng 2 tháng gần đây, khi ngành chức năng ra tay triệt để hơn.
Là một phân lưu của sông ĐN, sông Thị Vải được xem như ranh giới tự nhiên giữa 2 tỉnh ĐN và Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau vụ Nhà máy Vedan xả nước thải trực tiếp ra sông gây ô nhiễm, sáng 21/7 chúng tôi đã có gần 1 ngày lênh đênh trên dòng Thị Vải. Theo trực quan, tình hình có vẻ đã được cải thiện nhiều, dòng nước đã trở lại màu xanh vốn có. Nhưng theo phản ánh của người dân, thực chất tình hình ô nhiễm chỉ được “gội rửa” ở bề mặt.
Khi người phải xa sông
Với công suất 90.000 m3/ngày đêm, Xí nghiệp cấp nước Dĩ An đứng hàng đầu tỉnh Bình Dương về cung cấp nước sinh hoạt trên địa bàn. Lấy nguồn từ sông ĐN, qua quá trình xử lý, xí nghiệp đang cung cấp cho hơn 6.000 hộ dân thuộc huyện Dĩ An và Thuận An có nước sạch sử dụng. Ông Trần Chiến Công, GĐ xí nghiệp, cho biết: “Điều lo lắng nhất của chúng tôi là chất lượng nước đầu vào đang ngày càng xấu đi. Hiện các tiêu chuẩn về độ đục, sắt, mặn... trong nước đều vượt mức cho phép và điều đáng lo là đang gia tăng theo từng năm.
Trong khi đó, dưới cái nắng gay gắt của trưa hè, khu vực suối Linh - một trong 2 đoạn suối chính chảy qua TP Biên Hòa (ĐN), rồi đổ ra sông ĐN, nồng nặc mùi hôi thối đến mức gây cảm giác khó thở, nôn oẹ cho những ai mới đến. Dưới lòng suối, nước đen ngòm lẫn các đống rác sinh hoạt đã trương sình, cỏ dại um tùm tìm đường ra sông lớn. Tình hình ô nhiễm trên đã kéo dài gần 30 năm do nước thải sinh hoạt và công nghiệp đổ trực tiếp ra môi trường. Mặc dù người dân kêu cứu vì chất lượng nước sông ĐN bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng các ngành chức năng vẫn bình chân như vại. “Có rất nhiều người bị bệnh về đường hô hấp, ai không chịu nổi thì bán nhà đi chỗ khác ở”, ông Nguyễn Viết Ái, phường Long Bình, bức xúc.