Đó là khẳng định của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) Đào Ngọc Dung trong công văn mới đây gửi Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Phạm Thị Kiều và Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông.
Tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV, ĐBQH Phạm Thị Kiều chất vấn kết quả cũng như những vướng mắc trong thực hiện Nghị quyết 116/NQ-CP về triển khai hỗ trợ người lao động (NLĐ) bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ quỹ Bảo hiểm (BH) thất nghiệp. Đồng thời, ĐBQH cũng cho rằng, qua đại dịch, nhiều doanh nghiệp (DN), địa phương mới nhận thấy vai trò đích thực và tính cấp thiết của lao động nhập cư. Theo Bộ LĐTBXH, để họ không được coi là công dân hạng 2, những điều cần quan tâm nhất trong xác định chính sách hỗ trợ là gì?
Đối với lao động nhập cư, Bộ LĐTBXH khẳng định có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố, vùng kinh tế trọng điểm. Để phát huy vai trò, vị trí của lao động nhập cư cần quan tâm nhất trong xác định chính sách hỗ trợ gồm: Tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho lao động di cư thông qua các hoạt động hỗ trợ bằng tín dụng, kết nối thông tin với thị trường lao động và chuyển đổi nghề nghiệp; mở rộng cơ hội cho lao động di cư tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất hẳn việc làm do đại dịch; hỗ trợ thường xuyên đối với lao động di cư có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất khi họ gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân sách Nhà nước bảo đảm; tăng tiếp cận của lao động di cư với hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường…
Cụ thể, về giải pháp hỗ trợ DN duy trì sản xuất và việc làm gồm chính sách tài khoá (giảm thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế, giảm thu một số khoản phí, lệ phí); chính sách hỗ trợ tín dụng (hỗ trợ giải ngân, giãn nợ, hỗ trợ lãi suất cho DN vay để phát triển sản xuất); các gói tín dụng cho vay ưu đãi; chính sách hỗ trợ DN thuộc chính sách an sinh xã hội để giúp DN duy trì việc làm cho NLĐ như giảm mức đóng BH tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN), giảm các khoản đóng quỹ Công đoàn; tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề để duy trì việc làm cho NLĐ; vay vốn không lãi suất để trả lương ngừng việc, phục hồi sản xuất.
Về giải pháp giúp DN thực hiện duy trì việc làm, “giữ chân NLĐ” gồm nỗ lực phòng chống dịch, bảo đảm an toàn, bảo đảm duy trì việc làm với chính sách “tại chỗ” và di chuyển từ nơi ở đến nơi làm việc, cùng các hình thức khác phù hợp với từng DN để duy trì việc làm; thực hiện các chế độ bảo đảm an toàn phòng chống dịch để NLĐ yên tâm sản xuất kinh doanh.
Đối với NLĐ ngừng việc do DN phải tạm dừng sản xuất hoặc NLĐ không thực hiện làm việc mà về quê, các DN thực hiện các biện pháp nhằm giữ chân NLĐ như: Chủ động giữ thông tin liên lạc để sẵn sàng kêu gọi NLĐ quay trở lại sản xuất khi tình hình dịch được kiểm soát thông qua lập các nhóm trên mạng xã hội, internet với NLĐ; thực hiện các chế độ hỗ trợ NLĐ (trả lương ngừng việc, hỗ trợ bằng tiền đối với một số ngày nhất định khi tạm hoãn, nghỉ việc không lương), nhiều DN đảm bảo chế độ cao hơn pháp luật quy định và cố gắng tìm các giải pháp để không chấm dứt quan hệ lao động như dùng biện pháp ngừng việc có trả lương, hoặc nếu thời gian quá dài mà phải tạm hoãn/nghỉ việc không lương thì vẫn duy trì đóng BHXH để giữ chân NLĐ.
Ngoài ra, điều tiết thị trường lao động ở cấp quốc gia và từng địa phương (sinh viên các trường nghề, thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự); tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng các giải pháp, chính sách hỗ trợ người dân, nhất là các gói hỗ trợ an sinh xã hội khẩn cấp... nhằm thực hiện “mục tiêu kép”; hỗ trợ theo Nghị quyết 68, Nghị quyết 116 và hỗ trợ gạo cho người dân gặp khó khăn trong đợt dịch lần thứ 4…
Về vấn đề hỗ trợ theo Nghị quyết 116, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH cho biết, theo báo cáo của BHXH Việt Nam, về cơ bản đã hoàn thành xong việc xác định số giảm đóng cho 363.600 đơn vị sử dụng lao động (SDLĐ), tương ứng 9,68 triệu NLĐ, với số tiền tạm tính được điều chỉnh giảm đóng (từ tháng 10/2021 đến tháng 9/2022) khoảng 7.595 tỷ đồng. Cơ quan BHXH các cấp đã rà soát và gửi danh sách NLĐ thuộc đối tượng hỗ trợ đến 375.861 đơn vị SDLĐ, tương ứng với 11.868.907 NLĐ thuộc diện được hỗ trợ.
Trong đó, có 343.157 đơn vị đã gửi danh sách xác nhận hưởng hỗ trợ cho 11.366.801 NLĐ đang tham gia BH thất nghiệp. Số NLĐ đã dừng tham gia BH thất nghiệp đề nghị hỗ trợ là 1.289.332 người. Có 28.038 NLĐ đang tham gia BH thất nghiệp nhưng tự nguyện không nhận hỗ trợ. BHXH các cấp cũng giải quyết hưởng hỗ trợ cho 12.201.710 NLĐ (11.338.951 NLĐ đang tham gia BH thất nghiệp và 862.759 NLĐ đã dừng tham gia) với số tiền hỗ trợ trên 28.966 tỷ đồng và đa số chi trả qua tài khoản cá nhân.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 116, BHXH các địa phương gặp vướng mắc về việc xác định đối tượng hưởng hỗ trợ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập như: Ngân hàng Chính sách xã hội, Đài Phát thanh - Truyền hình các tỉnh và Trung ương, tổ chức xã hội như Trung tâm Giao lưu văn hoá… có thuộc đối tượng được Ngân sách Nhà nước (NSNN) bảo đảm chi thường xuyên theo quy định hay không? Ngoài ra, một bộ phận NLĐ đã dừng tham gia BH thất nghiệp di chuyển về các địa phương sau đợt dịch thứ 4 thuộc đối tượng hưởng hỗ trợ nhưng chưa tiếp nhận đầy đủ thông tin về chính sách để chủ động liên hệ với cơ quan BHXH địa phương.
Do vậy, để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên, Bộ LĐTBXH đã chỉ đạo các địa phương tập trung rà soát để hỗ trợ đối với đơn vị sự nghiệp công lập và NLĐ đang làm việc theo chế độ hợp đồng lao động (HĐLĐ) tại các đơn vị sự nghiệp công lập không được ngân sách bảo đảm chi thường xuyên theo quy định. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, rà soát đối tượng là NLĐ đã dừng tham gia BH thất nghiệp để NLĐ được tiếp nhận đầy đủ thông tin và hưởng chính sách hỗ trợ này.