Những nội dung quy định tại Thông tư 36/2014/TT-NHNN (TT 36) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang nhận được sự quan tâm lớn từ thị trường tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM). Ông Lê Đức Thọ - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) đã trao đổi với phóng viên báo Tin Tức xung quanh vấn đề này. Ông Lê Đức Thọ - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. |
Dư luận đang quan tâm là quy định giới hạn về cho vay cổ phiếu tại TT 36 đã giảm từ mức 20% trước đây xuống còn 5%. Điều này có ảnh hưởng gì tới VietinBank, thưa ông?
Nằm trong khuôn khổ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, thời gian qua, NHNN đã ban hành rất nhiều thông tư, quy định liên quan đến giám sát, kiểm soát hoạt động của các NHTM và tổ chức tín dụng (TCTD). Thông tư 36 vừa được ban hành giúp tiếp tục hoàn thiện và tăng cường khuôn khổ pháp lý để kiểm soát tốt hơn hoạt động ngân hàng, nâng cao hiệu quả quản trị điều hành, hạn chế rủi ro, giúp hệ thống ngân hàng phát triển bền vững.
Đối với quy định cấp tín dụng đầu tư kinh doanh cổ phiếu, trước đây NHNN quy định tổng dư nợ cho vay chiết khấu giấy tờ có giá, đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD, nay quy định tổng đầu tư vào kinh doanh cổ phiếu không quá 5% vốn điều lệ. Theo tôi, điều khoản này là cần thiết, giúp kiểm soát tốt hơn sở hữu, nhất là sở hữu chéo giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng và doanh nghiệp, hơn cả là giúp hệ thống ngân hàng tiệm cận gần hơn với thông lệ của thế giới.
Tại VietinBank, dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh cổ phiếu chỉ chiếm 1% vốn điều lệ, so với giới hạn 5% thì chúng tôi đang kiểm soát tốt.
Trong Thông tư 36 cũng có quy định ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao trên 3% thì không được cho vay chứng khoán, theo ông vấn đề này có ảnh hưởng tới tăng tín dụng chung của các ngân hàng?
Điều này là cần thiết, phải là những ngân hàng thực sự có chất lượng hoạt động tốt thì mới được cho vay chứng khoán. Nếu thực hiện đúng theo quy định này thì sẽ tốt hơn cho hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn vốn của hệ thống ngân hàng và hoàn toàn không ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng.
Đối với VietinBank, bên cạnh đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng thì chúng tôi đã kiểm soát chặt chẽ trong tất cả các khâu kinh doanh để đảm bảo tăng tín dụng phải đi liền với hiệu quả và an toàn vốn. VietinBank đã áp dụng nhiều biện pháp để thu hồi tối đa nợ hoặc tái cơ cấu khoản nợ, giúp doanh nghiệp có điều kiện tồn tại và có thể mở rộng phát triển. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng, phân loại nợ theo đúng quy định, tăng cường khả năng trích lập dự phòng rủi ro. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đến hết tháng 10/2014 là 1,35% trên tổng dư nợ; nợ nhóm 2 là 0,31% trong tổng dư nợ, chất lượng tín dụng được kiểm soát bảo đảm.
NHNN đã quyết định nới tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn lên 60%, cao gấp đôi so với mức 30% hiện hành. Ông đánh giá gì về sự thay đổi này, nó có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của VietinBank hay không?Chúng ta cũng biết, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua có nhiều dấu hiệu tích cực. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng đặc biệt là thị trường trái phiếu, cổ phiếu còn hạn chế nên các doanh nghiệp tiếp cận qua các thị trường này để khai thác các nguồn vốn vẫn còn giới hạn. Thực tế, nguồn vốn mà các doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh vẫn phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng.
Việc điều chỉnh lần này của NHNN rất cần thiết và phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường hiện nay, giúp NHTM có thể hỗ trợ tích cực hơn nữa cho quá trình phát triển của doanh nghiệp. So với trước, quy định lần này đưa giới hạn lên 60% nguồn vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn là tính trên cơ sở thời hạn còn lại của nguồn vốn và của tài sản. Như vậy, với cách tính như thế sẽ đầy đủ hơn cũng như đáp ứng được yêu cầu về mặt quản trị giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
VietinBank đã đưa ra các chương trình, các sản phẩm huy động mới để khai thác tốt hơn các nguồn vốn trung và dài hạn bằng VND vào hệ thống. Chúng tôi có các biện pháp quản trị rất chặt chẽ sự cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng, trên cơ sở nhu cầu sử dụng về quy mô, về cơ cấu, về tốc độ tăng trưởng để thiết kế các tài sản nợ một cách phù hợp.
MP (thực hiện)