Theo ông Tân, xuất phát từ tình hình thực tế là một số nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau, nhưng các địa phương lại áp dụng mức giá tính thuế tài nguyên khác nhau, tạo môi trường cạnh tranh không bình đẳng… Do đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 44/2017/TT-BTC quy định về khung giá tính thuế tài nguyên đối với các nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau để thống nhất giá tính thuế.
Khung giá tính thuế tài nguyên theo Thông tư 44 áp dụng đối với các loại tài nguyên như: khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, sản phẩm của rừng tự nhiên, nước thiên nhiên, yến sào thiên nhiên…
Trên cơ sở khung giá tính thuế tài nguyên đã được Bộ Tài chính ban hành, UBND cấp tỉnh ban hành Bảng giá tính thuế tài nguyên. “Giá tính thuế tài nguyên tại Bảng giá tính thuế tài nguyên phải phù hợp với khung giá tính thuế tài nguyên và lớn hơn hoặc bằng mức giá tối thiểu của nhóm, loại tài nguyên tương ứng quy định tại khung giá tính thuế tài nguyên”, ông Tân cho biết.
Theo Tổng cục Thuế, việc ban hành khung giá tính thuế tài nguyên sẽ đảm bảo khách quan, công bằng, hoàn toàn không có chuyện lợi ích nhóm ở đây. Vì cơ sở dữ liệu để đưa ra khung giá tính thuế tài nguyên được cập nhật thường xuyên, căn cứ dựa trên nhiều yếu tố, đảm bảo tính thống nhất.
Hơn nữa, trên cơ sở khung giá tính thuế tài nguyên này, UBND các tỉnh căn cứ vào cơ sở dữ liệu hiện có như: thông tin từ tờ khai thuế tài nguyên có sẵn thể hiện trên hồ sơ khai thuế tài nguyên do người nộp thuế kê khai từ tờ khai hải quan thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với các loại tài nguyên tương ứng… để áp dụng bảng giá tình thuế tài nguyên cho phù hợp.
Khung giá tính thuế tài nguyên và cơ sở dữ liệu giá tính thuế tài nguyên là một trong những cơ sở để xây dựng cơ sở dữ liệu giá tính thuế tài nguyên, phục vụ cho việc quản lý giá tính thuế tài nguyên thống nhất trên toàn quốc, phục vụ cho công tác quản lý rủi ro trong quản lý thu thuế tài nguyên, công tác thanh tra, kiểm tra liên quan đến thuế tài nguyên; góp phần khuyến khích việc khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên của đất nước.
Theo Thông tư 44, có 2 trường hợp điều chỉnh, bổ sung khung giá tính thuế tài nguyên, gồm: Giá tài nguyên phổ biến trên thị trường biến động lớn (tăng từ 20% trở lên so với mức giá tối đa, hoặc giảm từ 20% trở lên so với mức giá tối thiểu của khung giá tính thuế tài nguyên do Bộ Tài chính ban hành; khi phát sinh loại tài nguyên mới chưa được quy định trong khung giá tính thuế tài nguyên.
“Thông tư cũng quy định trách nhiệm cụ thể của Sở Tài chính và các đơn vị có liên quan đối với trường hợp giá tài nguyên biến động lớn phải điều chỉnh ngoài khung giá và đối với trường hợp tài nguyên mới chưa được quy định trong khung giá tính thuế tài nguyên”, ông Tân nói.
Đại diện Tổng cục Thuế cũng cho biết, để thực hiện thống nhất khung giá tính thuế tài nguyên theo Thông tư 44, trước đó, Tổng cục Thuế đã có công văn gửi cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, yêu cầu các cục thuế phối hợp với các sở tài chính và các cơ quan liên quan tại địa phương tiến hành rà soát, xác định mức giá tính thuế tài nguyên của mỗi loại tài nguyên, báo cáo UBND cấp tỉnh xem xét để tiếp tục áp dụng theo Bảng giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh đã ban hành (nếu còn phù hợp), hoặc ban hành văn bản điều chỉnh đối với loại tài nguyên trong Bảng giá không còn phù hợp với khung giá mới.
Liên quan việc ban hành khung giá tính thuế tài nguyên này có ảnh hưởng gì đến những ưu đãi theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP về các chính sách phát triển thủy sản, khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển trước đó, lãnh đạo Tổng cục Thuế khẳng định: Việc ban hành khung giá tính thuế tài nguyên này không ảnh hưởng gì tới những ưu đãi đối với nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản vì theo quy định hiện hành, thủy, hải sản là đối tượng không phải chịu thuế.