Năm 1932, đồng chí bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương.
Năm 1936, đồng chí tham gia hoạt động phong trào dân chủ.
Năm 1937, đồng chí được kết nạp vào Đảng, được cử vào Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 10/1938, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, tháng 5/1939 ra tù, sau đó bị bắt lại, bị đưa đi tù ở các nhà lao Huế, Lao Bảo, Ban Mê Thuột, rồi đi an trí ở Đắc Tô.
Tháng 5/1945, đồng chí ra tù về hoạt động ở Thừa Thiên, được cử vào Thường vụ Việt minh tỉnh, rồi làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên.
Sau Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, đồng chí làm Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thừa Thiên.
Cuối năm 1948, đồng chí được bầu vào Liên khu ủy 4, trực tiếp làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1950, đồng chí được bầu vào Thường vụ Liên khu ủy 4, phụ trách Bình Trị Thiên kiêm Chính ủy Mặt trận Bình Trị Thiên.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí được bầu vào Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Liên khu ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 4.
Từ giữa năm 1954 đến năm 1958, đồng chí được phân công tham gia Quân ủy Trung ương, phụ trách công tác đình chiến, rồi được cử làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, năm 1956 được phân công kiêm Chủ nhiệm Ban Thể dục Thể thao Trung ương.
Năm 1956, đồng chí được bầu Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cuối năm 1958, được cử vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, được phân công làm Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ban Bí thư Trung ương Đảng, làm Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính Thương nghiệp Phủ Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Từ năm 1965 đến năm 1974, đồng chí làm Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, rồi làm Bộ trưởng Nông nghiệp và Chủ nhiệm Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng, tham gia Thường vụ Hội đồng Chính phủ. Năm 1971, đồng chí được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương.
Năm 1974 - 1976, đồng chí là Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách khối Nông nghiệp. Tháng 6/1976, đồng chí được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được phân công làm Bộ trưởng kiêm Bí thư Ban cán sự đảng Bộ Tài chính.
Đến năm 1986, đồng chí được nghỉ công tác theo chế độ.
Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa II, III, IV; Bí thư Trung ương Đảng khóa II, khóa III; đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
Với công lao và đóng góp đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.