Nghệ thuật quân sự ở Chiến dịch Tây Nguyên chính là thế trận “trói địch lại mà đánh”, ta chủ trương: "Chia cắt, vây hãm, vừa hãm vừa tiến công đột phá; vừa bí mật vừa nghi binh”. Trong ảnh: Các chiến sĩ đoàn Pleime (Gia Lai) thảo luận phương án đánh địch. Ảnh: Phú Tuấn/TTXVN
Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên
Theo quyết định của Bộ Chính trị, ngày 5/2/1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam được cử vào mặt trận Tây Nguyên để trực tiếp theo dõi và chỉ đạo chiến dịch.
Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên gồm các đồng chí:
- Tư lệnh: Trung tướng Hoàng Minh Thảo.
- Chính ủy: Đại tá Đặng Vũ Hiệp.
- Phó Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng, Đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang.
- Phó Chính ủy: Đại tá Phí Triệu Hàm.
Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San - Phó Bí thư Khu ủy và đồng chí Nguyễn Văn Cần, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng một số cán bộ đại diện các ngành ở bên cạnh Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch, để chỉ đạo trực tiếp ba tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk huy động mọi khả năng hiện có của địa phương để phục vụ Chiến dịch Tây Nguyên.
Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
Kế hoạch và các lực lượng tham gia Chiến dịch Tây Nguyên
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, ta không chỉ xây dựng được lực lượng với khả năng tác chiến binh chủng hợp thành, mà còn có sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng hậu cần, kỹ thuật phục vụ. Trong ảnh: Đơn vị vận tải C3 anh hùng (Đoàn 250 Tây Nguyên) cõng đạn ra chiến trường. Ảnh: Thanh Tung/TTXVN
Từ ngày 17 đến ngày 19/2/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên họp mở rộng, thảo luận cụ thể từng vấn đề về so sánh lực lượng, bố trí thế trận và cách đánh. Theo phân tích, tình hình địch, ta trên chiến trường Tây Nguyên đang phát triển theo xu hướng có lợi cho ta. Đây là điều kiện thuận lợi để quân đội ta tiến hành chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, giành thắng lợi lớn ở Nam Tây Nguyên.
Hội nghị quyết định tập trung lực lượng mạnh, chủ yếu vào Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Thuần Mẫn. Trong đó, mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột. Sau đó, phát triển tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Cheo Reo, Gia Nghĩa và các chi khu, quận lỵ trong ba tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức; trong đó, Đắk Lắk là trọng điểm.
Cách đánh Chiến dịch Tây Nguyên là bí mật triển khai lực lượng, cắt các trục đường 19, 14, 21 ngăn chặn lực lượng ứng cứu của địch; đánh Đức Lập và Thuần Mẫn để kéo địch ở Buôn Ma Thuột ra tiêu diệt, làm cho Buôn Ma Thuột sơ hở, cô lập. Dùng lực lượng binh chủng hợp thành tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Buôn Ma Thuột.
Bộ Tư lệnh chiến dịch dự kiến kế hoạch tác chiến theo hai phương án. Phương án thứ nhất là đánh địch khi chúng chưa tăng cường phòng ngự dự phòng. Phương án thứ hai là địch đã tăng cường phòng ngự dự phòng. Bộ Tư lệnh chiến dịch nêu rõ trong công tác chuẩn bị lấy phương án thứ hai làm cơ bản, nhưng trong thực hiện phải cố gắng tạo thời cơ đánh địch theo phương án thứ nhất.
Quân giải phóng trong chiến dịch Tây Nguyên. Ảnh: TTXVN
Các lực lượng tham gia Chiến dịch Tây Nguyên:
- Trên hướng chủ yếu Nam Tây Nguyên gồm: ba Sư đoàn bộ binh (10, 320 và 316), ba Trung đoàn bộ binh (25, 95B và 271), Trung đoàn đặc công 198, hai Tiểu đoàn đặc công (14 và 27), hai Trung đoàn pháo binh (40 và 675), ba Trung đoàn pháo phòng không (232, 234 và 593), Trung đoàn xe tăng thiết giáp 273, hai Trung đoàn công binh (7 và 575), Trung đoàn thông tin 29, Trung đoàn xe ô tô vận tải, lực lượng vũ trang tỉnh Đắk Lắk.
- Trên hướng Bắc Tây Nguyên và đường 19 (An Khê) gồm: Sư đoàn bộ binh 968 (thiếu một Trung đoàn), Sư đoàn bộ binh 3 Quân khu 5 (thiếu một Trung đoàn), Trung đoàn bộ binh 95A, lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh Kon Tum, Gia Lai.
Đêm ngày 25/2/1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch thông qua phương án tác chiến Chiến dịch Tây Nguyên trước đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Trên tấm bản đồ quyết tâm chiến dịch có ghi rõ nhiệm vụ, các lực lượng tham gia, các mũi tiến công vào mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột. Các đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến dịch và Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy - ký quyết tâm lên tấm bản đồ. Đại tướng Văn Tiến Dũng ký phê chuẩn.
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, ta không chỉ xây dựng được lực lượng với khả năng tác chiến binh chủng hợp thành, mà còn có sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng hậu cần, kỹ thuật phục vụ... Trong ảnh: Dân quân địa phương tham gia chống lầy, mở đường cho xe tăng quân giải phóng xuất kích trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975. Ảnh: Hứa Kiểm/TTXVN
Các bước chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên
Với phương châm "Mạnh bạo, chắc thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ", công tác chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên được Bộ Tư lệnh tổ chức hết sức công phu và được tiến hành theo hai bước, gồm: Bước chuẩn bị trước và Bước chuẩn bị trực tiếp.
- Chuẩn bị trước Chiến dịch:
Trong Bước chuẩn bị trước Chiến dịch Tây Nguyên, ta mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng, củng cố hậu phương tại chỗ, dồn ép địch vào các thị xã, thị trấn. Trên hướng Pleiku, Sư đoàn 320 tiến công căn cứ Chư Nghé, tiêu diệt căn cứ Lệ Ngọc, 711 và 601, Trung đoàn 25 đánh chiếm căn cứ Ia Súp (nằm giữa Pleiku và Đắk Lắk). Những hoạt động trên của ta đã mở rộng vùng Tây Nam Pleiku, Tây Bắc Đắk Lắk, dồn ép quân địch vào sát các thị xã, thị trấn.
Trên hướng Kon Tum, Sư đoàn 10 đã tiêu diệt địch ở cao điểm Kon Rốc, diệt tiểu đoàn 95 và hai đại đội địch. Tiếp đó, ta đã đánh chiếm quận lỵ Đắc Pét và quận lỵ Măng Đen. Bộ đội địa phương Kon Tum bức rút quận lỵ Măng Bút. Vùng phía Bắc thị xã Kon Tum được giải phóng hoàn chỉnh, quân ta bao vây ép địch sát vào thị xã Kon Tum. Đến đầu năm 1975, vùng giải phóng của ta đã được mở rộng vào sát các thị xã, thị trấn và đường giao thông chiến lược quan trọng của địch ở hầu hết các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Gia Nghĩa.
Trong thời gian chuẩn bị trước, bộ đội ta đã tiến hành một loạt các biện pháp nghi binh lừa địch nhằm bảo đảm bí mật cho việc vận chuyển vũ khí và lực lượng của ta xuống phía Nam Tây Nguyên. Kế hoạch nghi binh chiến dịch rất toàn diện và công phu: Một mặt ta duy trì hoạt động thường xuyên trên các hướng. Sư đoàn 10 dùng pháo bắn vào Kon Tum, đánh nhỏ ở quanh thị xã; Sư đoàn 320 đánh nhỏ trên đường 19; Trung đoàn 198 đặc công tập kích vào kho xăng ở Pleiku. Huy động dân công các huyện 40, 67, 30, 80, Diêu Bình, Tân Cảnh của Kon Tum và các huyện 4, 5 của Gia Lai làm đường giả vào thị xã Kon Tum và Pleiku.
Mặt khác, ta đưa Sư đoàn 968 bí mật thay thế vị trí Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, địch phát hiện được nhưng lại đoán là ta tăng thêm lực lượng để đánh Pleiku. Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10 cùng các binh chủng cơ động vào phía Nam Tây Nguyên. Đây là một việc cực kỳ phức tạp, đặc biệt là việc rút Sư đoàn 10 ra khỏi Kon Tum, vì sư đoàn này đang bố trí trên vùng mới giải phóng ở Diêu Bình, nơi địch có nhiều gián điệp đi lại. Để đánh lừa địch, các đơn vị của Sư đoàn 10 di chuyển theo kiểu đèn cù, thay chỗ cho nhau nhiều lần. Sau đó, ta đưa Sư đoàn 10 lên ô tô đến Đức Lập. Đầu tháng 2/1975, Sư đoàn 320 bí mật hành quân vào khu tập kết phía Tây Ea Hleo. Khi Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 hành quân, toàn bộ điện đài và nhân viên báo vụ của hai sư đoàn ở vị trí cũ và phát sóng như thường lệ, truyền đi các báo cáo giả, các mệnh lệnh giả đánh lừa địch.
Nhìn chung, do có thời gian chuẩn bị, nên Bước chuẩn bị trước Chiến dịch Tây Nguyên được tiến hành chu đáo, giải quyết được những vấn đề cơ bản cho Bước chuẩn bị trực tiếp cho Chiến dịch Tây Nguyên.
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, ta không chỉ xây dựng được lực lượng với khả năng tác chiến binh chủng hợp thành, mà còn có sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng hậu cần, kỹ thuật phục vụ. Trong ảnh: Bộ đội vận tải thuộc đơn vị 250 (Gia Lai) chuyển hàng ra chiến trường. Ảnh: Anh Tôn/TTXVN
- Chuẩn bị trực tiếp cho Chiến dịch:
Bước chuẩn bị trực tiếp cho Chiến dịch Tây Nguyên được tiến hành từ ngày 21/1/1975. Trong bước chuẩn bị này, Bộ Tư lệnh chiến dịch tiếp tục hoạt động nghi binh và điều chỉnh, bố trí lực lượng thành các cụm theo nhiệm vụ chiến dịch, gồm:
- Cụm lực lượng trên hướng Buôn Ma Thuột: Sư đoàn 316 bộ binh, Trung đoàn 95B, Trung đoàn 24 (thiếu một Tiểu đoàn), Tiểu đoàn 21 thuộc Đoàn 559, Trung đoàn 273 thiết giáp (thiếu một Tiểu đoàn), Trung đoàn 198 đặc công và Tiểu đoàn 27 đặc công, hai Trung đoàn pháo binh (40 và 675), hai Trung đoàn cao xạ (234, 232), hai Trung đoàn công binh (7 và 575) và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Đắk Lắk.
- Cụm lực lượng trên đường số 14 - Thuần Mẫn: Sư đoàn 320.
- Cụm lực lượng trên hướng Đức Lập - Quảng Đức: Sư đoàn 10 (thiếu Trung đoàn 240), Trung đoàn 271, một tiểu đoàn pháo của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn đặc công 14.
- Cụm lực lượng trên đường số 21: Trung đoàn 25 bộ binh.
- Cụm lực lượng trên đường số 19: Sư đoàn 3 (thiếu một Trung đoàn) ở Bình Khê và Trung đoàn 95A ở Plây Pôn.
- Trên hướng thị xã Pleiku và thị xã Kon Tum: Sư đoàn 968 và lực lượng vũ trang địa phương của Gia Lai và Kon Tum đảm nhiệm.
Sau khi các đơn vị đã triển khai trên các hướng chính an toàn, bí mật, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn 95A nổ súng cắt đường 19 đoạn phía Đông thị xã Pleiku. Ngày 4/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu.
[Nguồn: TTXVN; Sách: Những chiến dịch có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong Đại thắng mùa Xuân 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010; Sự kiện và những con số lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng: Lịch sử Quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019; Từ trận Phai Khắt, Nà Ngần đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2024]