Để thị trường khoa học và công nghệ phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới cần phải "gỡ" bỏ nhiều nút "thắt".
Chưa kết nối nguồn lực từ trung ương tới địa phương
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 xác định: Phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ. Kết nối có hiệu quả các sàn giao dịch công nghệ quốc gia với các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ ở các địa phương. Phát triển mạnh mạng lưới các tổ chức dịch vụ trung gian môi giới, đánh giá chuyển giao công nghệ… Ngoài ra, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ nhấn mạnh, việc thúc đẩy phát triển hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học và công nghệ để hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế.
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho rằng, thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam chưa phát triển như kỳ vọng bởi các tổ chức trung gian, môi giới và cơ sở hạ tầng của thị trường khoa học và công nghệ còn rời rạc, tự phát, chưa liên kết thành mạng lưới để hỗ trợ các dịch vụ trên thị trường. Bên cạnh đó, sự kết nối nguồn lực, liên thông giữa thị trường khoa học và công nghệ trong nước với thị trường khoa học và công nghệ thế giới cũng như với với các thị trường khác ở trong nước (đặc biệt là thị trường lao động và thị trường vốn) còn hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay ngày càng cao. Số lượng và chất lượng nguồn cung công nghệ cũng như sự minh bạch thông tin về công nghệ và việc giảm thiểu các chi phí trong giao dịch mua bán công nghệ đang là đòi hỏi cấp bách nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp. Đáng chú ý, các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa có đủ năng lực để chủ động tìm kiếm và tiếp cận các thông tin về nguồn cung công nghệ cũng như chưa tích lũy đủ các nguồn lực (nhất là nguồn vốn và nhân lực trình độ cao) để tiếp nhập công nghệ mới, công nghệ cao.
Hiện tại, cả nước có trên 800 tổ chức trung gian các loại đã được hình thành hoạt động trong thị trường này, trong đó có các sàn giao dịch công nghệ tại các địa phương; cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin khoa học và công nghệ, nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp; nhiều trung tâm xúc tiến chuyển giao công nghệ, tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp; các tổ chức thẩm định, giám định công nghệ; các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ…
Bên cạnh đó, từ khi triển khai Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Đề án 844), tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ đã hình thành một số mô hình mới, không chỉ hỗ trợ đánh giá, định giá, xúc tiến chuyển giao công nghệ, mà còn gắn với tư vấn gọi vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, góp vốn đầu tư, thành lập doanh nghiệp bằng công nghệ... kỳ vọng sẽ tạo cú hích cho thị trường khoa học và công nghệ thời gian tới khi nhu cầu phát triển sàn giao dịch vốn cho start-up gắn với sàn giao dịch công nghệ. Hay nói cách khác là thị trường vốn đầu tư gắn với thị trường công nghệ đang phát triển ở một số thành phố lớn, theo xu hướng ở khu vực và trên thế giới.
Xác định khoa học công nghệ là thị trường
Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phan Xuân Dũng khẳng định: Khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng khẳng định vị trí và sự phát triển của một quốc gia. Việt Nam đã có rất nhiều chủ trương phát triển đất nước bằng khoa học công nghệ. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ bản chất đúng nghĩa "thị trường" và xác định thị trường khoa học và công nghệ có 3 vế gồm: Cung - Cầu và công cụ kết nối giữa cung và cầu là môi trường được hiểu là các tổ chức trung gian, các sàn giao dịch... Thực tế, các vế của thị trường đã đủ nhưng vấn đề tại sao thị trường khoa học công nghệ chưa phát triển. Điều này có thể lý giải thị trường khoa học và công nghệ chưa tuân thủ quy luật thị trường, nếu thực hiện đúng quy luật thì thị trường sẽ phát triển. Để thúc đẩy cung sản phẩm khoa học công nghệ, điều này đòi hỏi người làm chính sách phải hiểu cặn kẽ về công nghệ; phải có nguồn nhân lực, tin tưởng và tôn vinh phù hợp đội ngũ khoa học công nghệ để họ tạo ra nguồn cung. Không chỉ các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng để phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phải quan tâm phát triển các doanh nghiệp trong nước.
Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, thị trường khoa học và công nghệ có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trong 10 năm trở lại đây, thị trường khoa học và công nghệ từng bước được hình thành và kiện toàn từ trung ương đến địa phương cùng với nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đã được ban hành. Nguồn cung hàng hóa khoa học và công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học đã tăng đáng kể. Nhu cầu và năng lực tiếp cận, hấp thụ và làm chủ công nghệ mới, công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp ngày càng tăng cao và cải thiện. Các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ dần được hình thành, cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin khoa học và công nghệ, nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp được Bộ Khoa học và Công nghệ hỗ trợ xây dựng và hoạt động hiệu quả.
Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) cho rằng, Việt Nam đã có nhiều thành tựu trong phát triển khoa học và công nghệ, có tham vọng trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045 và có nền kinh tế dựa trên tri thức với nhiều tiến triển trong triển khai các mục tiêu phát triển bền vững. Theo đó, khoa học công nghệ cần xây dựng được môi trường pháp lý có thể hỗ trợ và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Để đạt được chính sách nhất quán, có nhiều cơ quan đang tham gia xây dựng chính sách khoa học công nghệ. Tuy nhiên quy định còn chồng lấn và đây là nút "thắt" có thể cản trở đổi mới sáng tạo để đưa ra sáng kiến mới cho thị trường. Trong thời điểm dịch COVID-19 diễn biến phức tạp đã có nhiều phát minh, đổi mới sáng tạo ở cấp cơ sở như: Cây "ATM gạo", sử dụng công nghệ robot... trong đó, Công ty Công nghệ sinh học Minh Hồng được UNDP hỗ ứng dụng công nghệ sinh học biến rác hữu cơ thành các sản phẩm dọn dẹp nhà cửa và hiện công ty này đã xử lý được 509 tấn rác thải, sản xuất được hơn 50 nghìn lít sản phẩm phục vụ dọn dẹp nhà cửa, tạo ra thêm việc làm cho hơn 400 phụ nữ.
Bà Ramla Khalidi nói, khi xác định khoa học công nghệ là thị trường và tuân thủ quy luật thị trường thì đồng nghĩa với việc có thành công phải chấp nhận thất bại trong khoa học và công nghệ.
Từ nghiên cứu đến thương mại hóa
Cũng theo Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam Phan Xuân Dũng, thực tế, nguồn cung về khoa học và công nghệ khá dồi dào và rất lớn bởi rất người Việt Nam đủ sức làm và tạo ra các sản phẩm khoa học công nghệ để tạo ra sản phẩm cho thị trường. Nhưng việc chuyển giao công nghệ phải hiểu rộng hơn, bao gồm cả ý tưởng công nghệ và sản phẩm đi cùng công nghệ đến thương mại hóa đưa vào ứng dụng thực tế.
Ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc Tổ hợp Samsung Việt Nam cho rằng, chuyển giao công nghệ là vấn đề quan trọng trong nền kinh tế đang nổi lên như Việt Nam, do đó, cần tạo chính sách để khuyến khích chuyển giao công nghệ. Năm 2019, Samsung Việt Nam cũng đã ký bản ghi nhớ với Bộ Công Thương Việt Nam về chương trình hợp tác đào tạo chuyên gia tư vấn Việt Nam trong lĩnh vực cải tiến sản xuất và nâng cao chất lượng, Samsung cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam để trở thành một trung tâm của khu vực về khoa học và công nghệ nên chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả là cần thiết.
Theo Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Châu Văn Minh, nhằm thúc đẩy việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu và tài sản trí tuệ, thời gian qua Viện đã ban hành 4 chương trình ứng dụng và triển khai công nghệ gồm: Chương trình phát triển công nghệ; dự án sản xuất thử nghiệm với đầu ra ở quy mô pilot (hợp tác với doanh nghiệp); chương trình phát triển sản phẩm thương mại với sản phẩm đầu ra được cấp phép bởi cơ quan quản lý và được thương mại hóa; các đề tài dự án hợp tác bộ, ngành, địa phương để giải quyết các vấn đề cấp bách được đặt hàng... Vì vậy, Viện luôn đứng đầu về số bằng sáng chế và giải pháp hữu ích, chiếm tỉ lệ lớn của Việt Nam.
Trong 10 năm qua, Viện đã chuyển giao 120 sản phẩm, công nghệ cho các doanh nghiệp, địa phương và hiện nay đã có hơn 250 công nghệ có thể giới thiệu với doanh nghiệp để chuyển giao. Mặc dù có rất nhiều công nghệ đã sẵn sàng chuyển giao, nhưng Viện vẫn chưa thể phát huy hết thế mạnh trong công tác ứng dụng và thương mại hóa tài sản trí tuệ vì còn gặp nhiều khó khăn, thách thức như: Khó khăn thách thức từ nhà khoa học khi chỉ có 2 lựa chọn để thương mại hóa là: Chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp hoặc tự mình khởi nghiệp. Đa số các nhà khoa học lựa chọn phương án chuyển giao công nghệ hoặc giao lại cho tổ chức chủ trì để chuyển giao mà không chọn phương án tự mình khởi nghiệp do không đủ năng lực, kinh nghiệm trong kinh doanh và chưa có chính sách đảm bảo việc sử dụng các nhà khoa học khi triển khai doanh nghiệp đổi mới sáng tạo không thành công. Vì vậy, các nhà khoa học còn chưa mạnh dạn dấn thân vào con đường thương mại hóa và các kết quả nghiên cứu để đưa vào ứng dụng thực tế.
Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Châu Văn Minh chia sẻ, đối với doanh nghiệp thường chỉ quan tâm công nghệ đã hoàn thiện và sẵn sàng đưa vào sản xuất mà ít quan tâm mua công nghệ quy mô phòng thí nghiệm, quy mô pilot để tiếp tục đầu tư phát triển vì có nhiều rủi ro. Trong khi với cơ sở vật chất của Viện nói riêng và của các đơn vị nghiên cứu trong cả nước nói chung hiện nay khó có thể tạo ra công nghệ sẵn sàng ở quy mô sản xuất lớn để chuyển giao. Bên cạnh đó, nút "thắt" nữa là doanh nghiệp Việt chưa thực sự tin tưởng vào các công nghệ được tạo ra từ các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu trong nước nên vẫn lựa chọn mua công nghệ nước ngoài. Thông tin giới thiệu về các sản phẩm công nghệ của các nhà khoa học và cơ quan nghiên cứu trong nước với doanh nghiệp còn hạn chế do cơ sở dữ liệu khá rời rạc và chưa đồng bộ. Các tổ chức trung gian làm cầu nối cho các nhà khoa học và doanh nghiệp còn yếu về năng lực, thiếu sự hỗ trợ về cơ chế chính sách nên khả năng hỗ trợ thương mại hóa còn hạn chế, đồng thời thiếu sự liên kết với mạng lưới trong khu vực và quốc tế.
Để các kết quả nghiên cứu có thể tiếp cận nhanh vào thị trường và tạo điều kiện cho các nhà khoa học triển khai ứng dụng và thương mại hóa kết quả khoa học và tài sản trí tuệ, cần rà soát, điều chỉnh thống nhất các quy định, văn bản pháp lý liên quan thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ như: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Sở hữu trí tuệ... Xây dựng chính sách khuyến khích và bảo vệ các nhà khoa học khi được phân công quản lý, điều hành doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, chính sách cụ thể để các nhà khoa học đã tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp đổi mới sáng tạo sau 3 đến 5 năm được quay về làm việc ở viện/trường, cơ quan nghiên cứu khoa học trong trường hợp không thành công; có chính sách khuyến khích, ưu tiên mua thiết bị, công nghệ… là sản phẩm khoa học được tạo ra từ các nghiên cứu trong nước trong mua sắm công.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tâm, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trình bày tham luận, góp phần đề xuất một số giải pháp về xây dựng, hoàn thiện chính sách nhà nước hướng tới hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Việt Nam. Tuy nhiên để thúc đẩy nghiên cứu và tạo ra sản phẩm, chuyển giao công nghệ ra thị trường, vai trò của các bên cần được rõ ràng và đầy đủ. Nhà nước cần tạo ra chính sách và hành lang pháp lý dẫn dắt các trường đại học và các bên liên quan, doanh nghiệp tham gia vào quá trình hình thành ý tưởng, nghiên cứu phát triển, thương mại hóa sản phẩm.