Lần này, Hội nghị Trung ương bàn và quyết định vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng chính là để cụ thể hóa, đưa vào cuộc sống một chủ trương rất quan trọng của Đại hội XI. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, rất khó, phạm vi rộng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều vùng, địa phương và cả nước; cần phải xác định rõ phạm vi, mục tiêu, yêu cầu, tư tưởng chỉ đạo thì mới có thể triển khai thực hiện một cách có hiệu quả. Hiện nay, Đề án đề cập toàn diện cả hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, bao gồm 10 lĩnh vực : Hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng, hạ tầng thủy lợi, hạ tầng đô thị, hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng thương mại, hạ tầng thông tin, hạ tầng giáo dục - đào tạo, hạ tầng y tế, hạ tầng văn hóa, thể thao; trong đó tập trung vào 4 lĩnh vực là : Hạ tầng giao thông, điện, thủy lợi và hạ tầng đô thị. Đề nghị Trung ương trước hết cho ý kiến về phạm vi các vấn đề, xác định như vậy đã hợp lý chưa? Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình, đề ra chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp một cách sát thực, có tính khả thi, cho từng lĩnh vực và cho tổng thể.
Về đánh giá tình hình, cần thấy cả mặt đã làm được và chưa làm được một cách khách quan, cầu thị; phân tích sâu sắc các nguyên nhân, nhất là nguyên nhân yếu kém, nguyên nhân chủ quan. Ví dụ: Vì sao có tình trạng đầu tư kết cấu hạ tầng dàn trải, chất lượng kém, lãng phí, thất thoát lớn, hiệu quả thấp? Phải chăng về tư duy, là do còn nặng tư tưởng tập trung, bao cấp, ỷ lại vào vốn ngân sách trung ương và vốn ODA; chú trọng xây dựng từng công trình mà coi nhẹ tính đồng bộ của hệ thống; quá ỷ lại vào Nhà nước, không coi trọng đúng mức vai trò của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, xã hội; chạy theo số lượng, tiến độ, thành tích bề nổi mà lơ là chất lượng, coi nhẹ công tác vận hành, duy tu, sửa chữa; tư tưởng bản vị cục bộ, ngành nào biết ngành ấy, địa phương nào biết địa phương ấy, không quan tâm phối hợp và hợp tác, sử dụng chung. Phải chăng về tầm nhìn, còn hạn chế, thiếu nhìn xa, nhìn tổng thể, làm cho chất lượng quy hoạch thấp, thiếu đồng bộ giữa kinh tế với xã hội; giữa cả nước, vùng với địa phương; thiếu gắn kết giữa các lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước, thủy lợi, thủy điện; giữa các phương thức vận tải đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển, đường không... Quy hoạch thì “hoành tráng” nhưng không tính tới nhu cầu sử dụng và nguồn lực thực hiện nên không khả thi; quy hoạch có khi bị chi phối bởi lợi ích cục bộ hoặc tư tưởng bình quân, chia đều cho các địa phương, không tập trung vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải chăng về cơ chế quản lý, có những yếu kém từ khâu xác định chủ trương, lập dự án, thẩm định, phê duyệt, tới tổ chức triển khai thực hiện. Dự án đầu tư không được cân nhắc đầy đủ về sự cần thiết, quy mô, khả năng nguồn lực, thời điểm, hiệu quả kinh tế - xã hội, thứ tự ưu tiên; có khi còn bị nhà đầu tư chi phối?
Cùng với việc đánh giá chính xác thực trạng tình hình kết cấu hạ tầng và công tác xây dựng kết cấu hạ tầng thời gian qua, Trung ương cần cho ý kiến về dự báo bối cảnh, yêu cầu đặt ra cho sự phát triển, nêu rõ những thuận lợi, cơ hội và những khó khăn, thách thức, nhất là những mâu thuẫn lớn đang đặt ra. Đó là: nhu cầu thì lớn nhưng nguồn lực có hạn; muốn đầu tư tập trung nhưng lại phải giải quyết đồng thời nhiều yêu cầu, mục tiêu phát triển; muốn phát triển nhanh, nhưng lại phải cắt giảm đầu tư công, thực hiện chính sách tài khóa - tiền tệ chặt chẽ và giữ nợ công trong ngưỡng an toàn; việc huy động vốn ODA khó khăn hơn khi kinh tế thế giới bất ổn và nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình...
Trên cơ sở đó, xác định rõ mục tiêu và định hướng phát triển cho thời gian tới theo tư tưởng chỉ đạo của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu. Phải căn cứ vào mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kết cấu hạ tầng chung của cả nước để định hướng phát triển, xây dựng cho từng vùng: vùng động lực phát triển, vùng đô thị và nông thôn; vùng công nghiệp, dịch vụ, vùng nông nghiệp, các tỉnh, thành phố. Đồng thời, thống nhất về chủ trương và giải pháp tập trung ưu tiên đầu tư đối với một số dự án, công trình lớn, đặc biệt quan trọng, có sức lan tỏa, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành dứt điểm chậm nhất vào năm 2020.
Về chính sách, cơ chế và giải pháp, cần chú trọng các vấn đề có tính đột phá, huy động được nhiều nguồn lực của xã hội, cả trong nước và nước ngoài; khắc phục cho được tình trạng đầu tư dàn trải, chất lượng kém, thất thoát, hiệu quả thấp. Đối với từng lĩnh vực kết cấu hạ tầng cụ thể, ngoài các chính sách, cơ chế và giải pháp chung, cần nghiên cứu xác định trong các quy hoạch ngành, các chính sách, cơ chế, giải pháp riêng. Tập trung vào các nhóm giải pháp về quy hoạch, kế hoạch; huy động và sử dụng các nguồn lực, đặc biệt là đất đai, lao động và nội lực hiện có; về phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vị trí then chốt của doanh nghiệp nhà nước; đa dạng hóa hình thức đầu tư, đẩy mạnh thu hút sự tham gia của nhân dân, khu vực tư nhân và đầu tư của nước ngoài vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng…
2- Đề án một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay
Chúng ta đều biết, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; công tác xây dựng Đảng luôn là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội XI của Đảng tiếp tục yêu cầu phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo…, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội đã đề ra 8 nhiệm vụ cơ bản có tính hệ thống, toàn diện về xây dựng Đảng cần phải thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, đây là công việc rất khó khăn, phức tạp; chúng ta đã tiến hành thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiệm kỳ này phải làm sao tạo ra được những chuyển biến rõ rệt về lĩnh vực này.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định, Hội nghị lần thứ tư cần thảo luận, ra Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay". Sau một thời gian chuẩn bị, căn cứ vào nhận định trong văn kiện Đại hội XI và thực tế tình hình trong nước, thế giới có những diễn biến mới, Bộ Chính trị xin kiến nghị Trung ương chọn ba vấn đề đang thực sự cấp bách, cần làm ngay, với mong muốn tạo ra được những kết quả cụ thể, rõ rệt để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó là: (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. (3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Đề nghị Trung ương cho ý kiến về sự lựa chọn này, có gì cần bổ sung, điều chỉnh. Từ đó, đánh giá đúng tình hình và nguyên nhân, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu; quan điểm, tư tưởng chỉ đạo; và những chủ trương, biện pháp phù hợp đối với từng vấn đề và cả ba vấn đề. Trong 3 vấn đề trên, phải chăng vấn đề thứ nhất (ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống) là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất?
Khi đánh giá tình hình và nguyên nhân, cần nhìn thẳng vào sự thật, bình tĩnh, khách quan, không phiến diện; chỉ ra cả mặt thành tựu và yếu kém; phân tích toàn diện cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Phải chăng nguyên nhân khách quan của mặt yếu kém là do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá, kích động chia rẽ, phân hóa nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với nhân dân… Cần nghiêm túc phân tích thật sâu sắc những nguyên nhân chủ quan, chỉ ra những căn bệnh gốc rễ, như: do không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, mang nặng chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội thực dụng; buông lỏng các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng; quan liêu, xa dân, thiếu gắn bó mật thiết với nhân dân; việc tổ chức thực hiện nghị quyết không đến nơi đến chốn, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm. Đặc biệt, có một câu hỏi lớn, rất day dứt, trăn trở lâu nay cần được trả lời cặn kẽ là: Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu? Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng? Vướng mắc chính là ở chỗ nào? Đề nghị Trung ương đi sâu phân tích, mổ xẻ, chỉ ra đúng căn nguyên để có biện pháp chữa trị hữu hiệu.
Về giải pháp, cần xác định những việc cần và có thể làm ngay và những việc cần phải có thời gian chuẩn bị, nhất là về xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách, để xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện một cách kiên quyết, khả thi, hiệu quả.
Những việc cần và có thể làm ngay phải chăng là: Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiến hành kiểm điểm, đánh giá, làm rõ trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đẩy mạnh chỉ đạo việc học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giải quyết từng vấn đề cấp bách, những việc cần làm ngay, xác định rõ về công việc, thời gian hoàn thành và người chịu trách nhiệm cụ thể. Nghiêm túc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý dứt điểm một số vụ việc mà dư luận quan tâm; cải tiến, nâng cao chất lượng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…
Đối với những việc cần phải có thời gian chuẩn bị thì khẩn trương nghiên cứu, tổng kết, đề xuất để đi đến quyết định và thực hiện. Ví dụ: Phải khẩn trương đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, chế độ sinh hoạt đảng; kiểm tra, giám sát việc tự rèn luyện và giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, cho phù hợp với điều kiện mới. Xây dựng quy định cụ thể về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh thực hiện chất vấn trong Đảng. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, gắn với việc tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; có cơ chế giám sát chặt chẽ của tổ chức đảng và nhân dân, kịp thời thay thế những người không hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, bảo đảm cho cán bộ, công chức có mức sống ổn định và có điều kiện để giữ liêm, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi…
Chúng ta biết rằng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc rất khó, rất phức tạp, vì nó liên quan đến xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những thành quả như ngày nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, trước thực trạng một số yếu kém, khuyết điểm, hơn lúc nào hết, Đảng ta càng phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng như Đại hội XI đã chỉ ra, tạo bước chuyển thực sự trong công tác này. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là: Ban Chấp hành Trung ương phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại; và không được để ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị thường xuyên của chúng ta.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này là những vấn đề rất cơ bản và hệ trọng. Mặc dù đã được Bộ Chính trị chỉ đạo nghiên cứu, chuẩn bị khá công phu, nghiêm túc, nhưng vì là những vấn đề lớn, khó, thời gian chuẩn bị rất gấp nên chắc chắn còn nhiều hạn chế. Đề nghị các đồng chí Trung ương nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, tập trung dành thời gian nghiên cứu, thảo luận, cho ý kiến để hoàn thiện và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn.