Tổ phóng viên “mũi nhọn”
Trong cuộc gặp với anh em, Tổng Biên tập VNTTX Đào Tùng đã biểu dương những cố gắng của tập thể cán bộ, phóng viên, khi biết chúng tôi đã đi bộ suốt đêm để vào Huế giải phóng, và liền sau đó, đi xe máy qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng, kịp thời có tin bài, hình ảnh sống động về những khoảnh khắc đầu tiên ở hai thành phố này.
Bác Đào Tùng nói rằng thời cơ lớn đang đến, anh em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ mới. Khi chia tay lên đường đi tiếp vào trong, TBT Đào Tùng ôm tôi rất lâu. Bác khen những bài “Huế đỏ cờ bay” , “ Đà Nẵng ngày đầu giải phóng”... mà tôi viết, và dặn dò cố gắng làm tốt công việc sẽ được phân công tới đây, dù trong hoàn cảnh nào.
Sáng hôm sau, anh Tư Phác, trưởng đoàn, đưa tôi xem bức điện mật từ Hà Nội do Phó TBT Đỗ Phượng ký, có dòng liên quan đến tôi: “Đưa các phóng viên ảnh Vũ Tạo, Lâm Hồng Long, Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành cùng phóng viên tin Mai Hưởng đi tiếp vào trong...”. Sau này, tôi biết TBT Đào Tùng đã trao đổi với Ban lãnh đạo ở Hà Nội để đưa ra quyết định này.
Tổ phóng viên mũi nhọn ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Mọi việc diễn ra rất nhanh, thời gian chuẩn bị chỉ có vài ngày. Những trận đánh lớn liên tiếp nổ ra. Quân ta đang tiến mạnh từ Bắc vào Nam theo quốc lộ 1 với khẩu hiệu chiến lược “Thần tốc! Thần tốc hơn nữa!” .
Tổ mũi nhọn do nhà nhiếp ảnh Vũ Tạo, phóng viên Thông tấn Quân sự làm tổ trưởng, với các phóng viên: Lâm Hồng Long, Hứa Kiểm (phóng viên Thông tấn Quân sự), Đinh Quang Thành và tôi. Ngoài các phóng viên còn có Ngô Bình (lái xe) và Thái (điện báo viên). Các phóng viên Thông tấn Quân sự Ngọc Đản và Hoàng Thiểm vừa cùng chúng tôi vào Đà Nẵng thì được cử hẳn sang bên quân đội, cũng đi tiếp vào trong nhưng không nằm trong biên chế của tổ. Chúng tôi để lại ba lô và đồ đạc chính ở Huế, chỉ mang theo quần áo, máy ảnh và ít vật dụng cá nhân.
Chiếc con của tổ chúng tôi do Ngô Trọng Bình lái là loại xe đít vuông của Liên Xô, tuy cũ nhưng còn tốt hơn xe Bắc Kinh hoặc xe Rumani “vừa đi vừa ngủ”. Đường xa, chiến trận, loại xe này lại hoàn toàn mới ở miền nam, nên nếu hỏng cũng chẳng có thể đào đâu ra phụ tùng để thay. Anh Vũ Tạo bàn với anh Lâm Hồng Long và tôi mang chiếc xe Honda Dam mà chúng tôi mượn của Uỷ ban quân quản Huế đi theo. Dù sao có Honda cũng cơ động hơn. Kể ra việc đó cũng không đúng vì xe chúng tôi mượn ở Huế thì phải trả lại ở đó cho cơ quan quản lý, nhưng xét yêu cầu công việc, đặt việc thực hiện nhiệm vụ lên trên, điều ấy cũng có thể chấp nhận được.
Xin được kể đôi nét về các đồng nghiệp trong tổ mũi nhọn. Anh Lâm Hồng Long là phóng viên ảnh giàu kinh nghiệm, từng có vinh dự chụp ảnh Bác Hồ, là tác giả của bức ảnh “ Bác bắt nhịp Kết đoàn” nổi tiếng. Các anh Vũ Tạo và Hứa Kiểm đều là những phóng viên chiến trường dày dạn của Thông tấn Quân sự. Có thể nói, không có mặt trận nào, chiến dịch lớn nào vắng các anh. Từ những năm chống chiến tranh phá hoại ở miền bắc, đến Đường 9 Nam lào, Quảng Trị Khe Sanh... Tôi đã từng gặp trên đường vào Quảng Trị năm 1972 cùng anh Nghĩa Dũng. Anh Vũ Tạo là một người điềm tĩnh, nhỏ nhẹ nhưng rất bản lĩnh và có những bức ảnh xuất thần. Nổi tiếng nhất là ảnh anh chụp một khẩu đội cao xạ đang bắn trả máy bay Mỹ. Khoảnh khắc bấm máy đúng lúc một quả bom nổ tung bên ụ pháo. Chỉ có lòng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh thì mới có thể chụp được bức ảnh ấy. Anh Hứa Kiểm cao lớn, người dân tộc Tày, rất xốc vác và nhiều kinh nghiệm sống ở chiến trường. Có anh đi cùng, nhiều khó khăn đến mấy cũng tìm ra được cách giải quyết. Anh cũng là một tay máy xông xáo và chụp được nhiều bức ảnh độc đáo. Anh Đinh Quang Thành thì là một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa. Ảnh của anh có nhiều chất thơ và sự tìm tòi sáng tạo trong xử lý bố cục, anh sáng. Bình lái xe và Thái điện báo đều còn trẻ, cỡ tuổi như tôi. Bình xông xáo, ăn to nói lớn, có bố đang ở chiến trường Nam Bộ, nên với Bình, đường ra phía trước cũng là nơi anh có thể gặp lại cha mình. Thái, điện báo viên mới ra trường, tính tình trầm lặng, nhẫn nại trong công việc của một điện báo viên. Ba anh em trẻ chúng tôi đi với các anh lớp trước thực sự là một may mắn lớn. Xa cơ quan, nhiệm vụ nặng nề, anh em trong tổ dù mới được thành lập, nhanh chóng gắn bó, đùm bọc nhau hoàn thành công việc của mình.
Khoảng 10/4, chúng tôi rời Huế, vào Đà Nẵng rồi đi về phía Nam. Mấy anh em ngồi ô tô còn cử một người thay nhau chạy xe máy bám theo, khi thì là anh Lâm Hồng Long, khi anh Đinh Quang Thành hoặc là tôi. Có khi là hai người đèo nhau cho đỡ buồn và cũng an toàn hơn trên những đoạn đường vắng. Tôi cảm nhận đựơc những thay đổi vô cùng lớn lao đang đến, nhưng dù có là người lãng mạn đến đâu cũng không ai dám nghĩ rằng chỉ vài tuần sau, chúng tôi đã có mặt ở Sài Gòn ngày chiến thắng.
Hướng Nam thẳng tiến
Chúng tôi qua Đà Nẵng,Tam Kỳ, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhắm về Quy Nhơn. Đây cũng là một thành phố lớn mới đươc giải phóng. Con đường số 1 chật cứng xe cộ và những người lính đang hướng ra phía trước. Tôi nhớ đến mấy câu thơ của Xuân Sách mà nhạc sĩ Huy Du phổ nhạc: “ Có những ngày vui sao, cả nước lên đường, xao xuyến bờ tre, từng hồi trống giục….”. Không khí trên đường hành quân đúng là như vậy.
Đêm đầu, chúng tôi ngủ ở Tam Kỳ, Quảng Nam. Sau đó, anh em cứ hướng Nam mà đi. Đến đâu cần thì liên hệ với các đơn vị bộ đội hoặc cấp uỷ, chính quyền cách mạng địa phương để làm việc, tìm nơi ăn nghỉ. Mọi việc rất linh hoạt. Bởi vì nếu đi theo hẳn một đơn vị bộ đội nào thì chúng tôi cũng rất khó xoay sở do đặc điểm công việc của mình. Cảnh sắc con người, cuộc sống đâu cũng mới mẻ, cuốn hút, nhưng chúng tôi cần tiến nhanh ra phía trước. Mọi người đều hiểu điều ấy.Tôi nhớ nhất hôm rời Tam Kỳ, anh Lâm Hồng Long và tôi đi trên xe Honda. Do mải mê dừng lại chụp ảnh và hỏi chuyện, hai anh em tụt lại khá xa. Đến bữa ăn trưa, chúng tôi ghé vào một quán nhỏ gần Sa Huỳnh. Mấy bà má ở quán thương lắm, cứ lấy cơm cho ăn, nước dừa cho uống và hỏi chuyện miền Bắc. Biết anh Long là cán bộ tập kết, các má rất mừng. Quán nhỏ bên đường, lá cờ nửa đỏ nửa xanh treo trước quán bay trong nắng gió trong lành của miền trung. Vậy là đủ tin yêu, quý mến rồi. Hai anh em chẳng có đồng tiền Sài Gòn nào. Tôi lấy mấy đồng bạc miền Bắc ra tặng các má chứ không dám nói là trả tiền. Mọi người xúm xít xem đồng tiền từ Hà Nội, rồi chuyền tay nhau, khen mãi đồng tiền ngoài đó đẹp.
Chúng tôi vào Quy Nhơn, thành phố có vẻ đẹp riêng với Gềnh Ráng, núi Một và cũng là một hải cảng lớn. Chúng tôi đi qua những đường tấp nập người, những khu chợ lớn đông vui, nhà thờ, chùa chiền đã mở trở lại. Tôi viết ngay bài “Gặp những người khởi nghĩa” phản ánh cuộc sống mới ở Quy Nhơn sau ngày giải phóng. Rất tiếc là do hành trình quá vội và việc liên lạc với Hà Nội có trục trặc, nên tôi phải mang theo bài viết này đến tận Nha Trang.Từ đấy trở đi, việc chuyển bài về nhà rất khó khăn. Càng xa Hà Nội, lại lên máy ở những thành phố lớn nên khả năng bắt sóng, phát tín hiệu ngày một khó khăn. Cái khó nhất là phải thường xuyên di chuyển, không có thời gian ổn định để có thể căng ăng ten thật cao ở những nơi xa thành phố.
Nha Trang ngày chúng tôi đến cũng đã giải phóng được mươi ngày. Trong mắt tôi, Nha Trang ngày ấy đẹp lắm. Có cái gì đó rất mới mẻ, tinh khôi từ thành phố nổi tiếng này, trên con đường dọc theo mép biển, những hàng dương xanh và cả khu chợ Đầm vẫn rộn ràng với cuộc sống thường ngày.
Chúng tôi đã có mặt ở Phan Rang ngay ngày quân giải phóng đập tan lá chắn này. Để phát kịp bài Phan Rang ra Hà Nội, tôi đã một mình đi xe máy về Nha Trang, nơi đặt điện đài, trong khi các anh trong tổ ngược lên Đà Lạt. Điều đáng nói là trong chuyến đi này, anh Đinh Quang Thành đã lấy được bản đồ thành phố Sài Gòn tại trung tâm bản đồ Đà Lạt. Đây chính là tấm bản đồ mũi đột kích thọc sâu của sư đoàn 304 sử dụng để tiến vào Dinh Độc Lập và trung tâm Sài Gòn ít ngày sau đó.
Từ Phan Rang, trên đường hành quân tiếp vào phía trong, chúng tôi dừng lại ở Hàm Tân, quê hương nhà nhiếp ảnh Lâm Hồng Long. Chúng tôi được chứng kiến khoảnh khắc rất cảm động khi anh Lâm Hồng Long gặp lại những người thân , trong đó có người phụ nữ chỉ mới hứa hôn với anh vẫn chung thuỷ đợi chờ sau 21 năm xa cách. Sau lần gặp gỡ này, anh Long được cơ quan cho ở lại ít ngày thăm gia đình, còn cả tổ tiếp tục hành quân. Chúng tôi hướng về Xuân Lộc, tuyến phòng ngự cuối cùng quân Sài Gòn vừa bị thất thủ trước sức tiến công vũ bão của quân giải phóng.
Mở toang cánh cửa Sài Gòn
Chúng tôi có mặt ở Xuân Lộc khi những trân đánh cuối cùng đang diễn ra. Trong thời điểm ấy, việc anh em trong tổ gặp được sư đoàn 304- sư đoàn Vinh Quang, kết nghĩa với TTXVN, được Bộ Tư lệnh sư đoàn đưa vào đội hình hành quân khi trận đánh lớn cuối cùng vào trung tâm Sài Gòn chỉ còn tính từng ngày, là duyên phận và một may mắn lớn. Ban lãnh đạo ở Hà Nội cũng rất vui mừng về điều này. Ngoài đồng chí Trần Bình, Chính uỷ sư đoàn, người thông tấn quân sự cũ, các đồng chí Đỗ Ân - Sư trưởng- rồi các đồng chí Nguyễn Hữu An -Tư lệnh trưởng quân đoàn 2, Hoàng Đan, Phó tư lệnh, vầ nhiều đồng chí trong cơ quan Bộ tư lệnh…, đối với chúng tôi đều rất thân thiết, quý mến.
Tôi sẽ không bao giờ quên những ngày cuối cùng ở Trường bắn Nước Trong. Sở chỉ huy tiến sát lên trận tuyến cuối cùng để phối hợp tác chiến giữa các đơn vị trước khi chiếm Long Thành, cầu xa lộ trên sông Đồng Nai để mở toang cánh cửa vào Sài Gòn. Những trận đánh cuối cùng rất ác liệt, căng thẳng. Mũi co cụm ở trường sĩ quan thiết giáp của quân Sài Gòn quyết chống cự đến cùng. Các mũi tiến công của quân ta phải giành giật từng điểm một và không ít thương vong. Điều quan trọng hơn là việc phối hợp các cánh quân trên toàn hướng đông.
Gương mặt của tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh quân đoàn, sau nhiều đêm mất ngủ, ngồi trầm tư bên ngọn đèn nhỏ khắc sâu trong ký ức tôi. Qua các mệnh lệnh truyền đi, tôi hiểu Bộ chỉ huy đang phải phối hợp để đặc công giữ các cầu trên xa lộ, cho pháo binh hướng đến các mục tiêu dọc đường tiến vào Sài Gòn. Trong khi phải lo tiêu diệt các điểm chốt chặn còn lại, thì việc phối hợp giữa bộ binh, xe tăng, thiết giáp... rất khẩn trương để hình thành một mũi thọc sâu tiến vào trung tâm Sài Gòn vào thời điểm thích hợp. Tôi biết các tướng Nguyễn Hữu An, Hoàng Đan... đều là những tài năng quân sự lỗi lạc của quân đội. Các ông chiến đấu từ kháng chiến chống Pháp, chỉ huy những đơn vị chủ công ở Điện Biên Phủ rồi qua bao gian nan của chuộc kháng chiến chống Mỹ, ở hầu hết các chiến trường, tham gia nhiều chiến dịch lớn. Và nay họ đang tham gia vào trận đánh có ý nghĩa nhất trong cuộc đời cầm quân của mình.
Rạng sáng ngày 30/4, mũi đột kích tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn. Chúng tôi qua cầu xa lộ lớn trên sông Đồng Nai từ sớm. Mệnh lệnh truyền xuống: Vừa đánh vừa tiến vào trung tâm. Những ổ kháng cự nhỏ hai bên đường vẫn bắn ra. Nhiều đoạn trên xa lộ, chiếc xe nhỏ của chúng tôi áp vào sườn xe tăng, lúc bên phải, lúc bên trái để tránh đạn bắn thẳng. Mục tiêu là Dinh Độc Lập. Từng đoàn xe nối đuôi nhau. Xe tăng dẫn đầu, rồi đến xe thiết giáp, xe chở bộ binh. Pháo 130 ly bắn yểm trợ dọc hai bên đường. Những đám khói đen đặc cuộn lên. Có đoạn, xe tăng phải hạ nòng bắn thẳng vào tàu chiến của quân Sài Gòn đang rút chạy.
Xe chúng tôi lao về phía Dinh Độc Lập. Người lái xe lúng túng vì thành phố quá lớn và có rất nhiều ngả đường. Sau mấy lần được chỉ dẫn, chúng tôi cũng đến nơi. Những chiếc xe tăng đi đầu đã đến đó trước ít phút. Cánh cửa sắt của Dinh Độc Lập đã bị hất tung. Vừa vào trong Dinh, tôi và phóng viên nhiếp ảnh Vũ Tạo nhảy ra khỏi xe thì thấy một chiếc xe tăng trong đội hình thọc sâu tiến qua cổng chính của Dinh.
Tôi đưa máy ảnh lên ghi lại hình ảnh tuyệt vời đó. Đấy chính là bức ảnh “Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/75” mà sau đó được sử dụng rộng rãi và trở thành một biểu tượng quen thuộc của Đại thắng Mùa Xuân cho đến ngày nay. Xe tăng trong ảnh mang số hiệu 846, là xe thứ tư trong đội hình thọc sâu gồm 7 chiếc xe tiến vào Dinh Độc Lập buổi trưa lịch sử ấy.
Ở ngay cửa Dinh, chúng tôi gặp Ngọc Đản và Hoàng Thiểm, hai phóng viên thông tấn quân sự đi theo xe thiết giáp, đó có mặt trước chúng tôi ít phút. Các anh Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành cùng Ngọc Đản, Hoàng Thiểm nhanh chúng ghi lại những hình ảnh quan trọng nhất, trong đó có cảnh các mũi xung kích cùng xe tăng tiến vào dinh, chân dung các chiến sĩ cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập, nội các Dương Văn Minh đầu hàng…
Sau đó, theo ý kiến của anh Vũ Tạo anh em trong tổ chia làm hai hướng. Các anh Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành dùng xe của tổ đi ra hướng sân bay Tân Sơn Nhất. Từ Dinh Độc Lập, tôi cùng nhà nhiếp ảnh Vũ Tạo, mượn chiếc xe con của Phó tư lệnh Quân đoàn 2, tuớng Hoàng Đan, đi tới các nơi khác trong trung thành phố để ghi lại những hình ảnh và thu thập thông tin cho bài viết của mình: Sứ quán Mỹ trên đường Thống Nhất - Mạc Đĩnh Chi còn nguyên dấu vết của một cuộc rút chạy tán loạn. Tại Phủ Thủ tướng Ngụy Sài Gòn, giấy tờ, con dấu vứt bừa bãi dưới sàn. Trụ sở bộ Quốc phòng ngổn ngang hàng chục xe Jeep đủ lọai. Tổng nha cảnh sát đầy ắp súng ống. Văn phòng tướng Cao Văn Viên tại Bộ tổng tham mưu còn cả những mẩu bánh mỳ ăn dở vứt trên bàn...
Chúng tôi qua chợ Bến Thành, qua bến Nhà Rồng, đi dọc đường Nguyễn Huệ... Đâu đâu cũng gặp những biển người sôi động niềm vui, nụ cười và cả những giọt nước mắt mừng vui. Cả thành phố thực sự sống trong một ngày hội lớn.
Điều rất mừng đoàn cán bộ, phóng viên TTXGP, trong đó có các anh Nguyễn Đức Giáp , Lâm Tấn Tài , Văn Bảo, Trần Mai Hạnh, Thanh Bền..., vào Sài Gòn từ hướng Tây Ninh cũng đã có mặt kịp thời tại Dinh Độc Lập. Ngay trong tối hôm đó, ảnh xe tăng chiếm dinh Độc Lập của anh Văn Bảo và bài tường thuật đầu tiên của anh Trần Mai Hạnh về Sài Gòn giải phóng được các anh chị kỹ thuật của TTXGP truyền qua hậu cứ ở Tây Ninh rồi phát ngay ra Hà Nội kịp thời. Ảnh của anh em trong tổ chúng tôi, qua các anh Hoàng Thiểm và sau đó là anh Hứa Kiểm mang bằng máy bay ra thẳng Hà Nội, kịp thời cung cấp cho bạn đọc trong và ngoài nước một bức tranh toàn cảnh về Sài Gòn trong ngày 30/4/1975. Nhiều bài viết, ảnh chụp của các anh chị khác ở TTXGP cũng được phát kịp thời. Đây là những thông tin, hình ảnh vô cùng quý giá,tạo nên một bức tranh toàn cảnh về hình ảnh của Sài Gòn, của toàn miền nam trong một thời điểm lịch sử.