Rào cản nội tại
Bà Lin Goethals, Giám đốc Viện Nghiên cứu châu Âu về châu Á (EIAS). Ảnh: Hương Giang/PV TTXVN tại Bỉ
Trao đổi với phóng viên TTXVN tại châu Âu, bà Lin Goethals, Giám đốc Viện Nghiên cứu châu Âu về châu Á (EIAS), khẳng định “vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác đầy đủ”. Đồng quan điểm trên, ông Trần Ngọc Quân, Tham tán Thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ và EU cho biết một số mặt hàng, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, giá trị gia tăng lớn như nông sản chế biến sâu, thủy hải sản, đồ gia dụng và các mặt hàng "xanh" thân thiện môi trường, vẫn chưa thâm nhập sâu vào thị trường EU – nơi xu hướng tiêu dùng bền vững ngày càng chiếm ưu thế.
Trong khi đó, ông Vũ Anh Sơn, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Pháp lại thẳng thắn chỉ ra một nghịch lý đáng lo ngại: "Sự tăng trưởng về giá trị tuyệt đối không đi đôi với việc thâm nhập thị trường sâu hơn". Đơn cử báo cáo của Bộ Tài chính Pháp chỉ ra rằng kể từ năm 2019, thị phần của hàng hóa Việt Nam tại thị trường này không tăng đáng kể, cho thấy việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan chỉ là bước khởi đầu.
Ông Vũ Anh Sơn, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Pháp, phối hợp với doanh nghiệp đón nhận lô vải thiều đầu tiên của mùa vụ 2025 cập cảng hàng không Paris CDG. Ảnh: TTXVN phát
Dựa trên thực tiễn trong suốt 5 năm thực thi EVFTA, các tham tán Thương mại Việt Nam tại châu Âu và giới chuyên gia đã chỉ ra nhiều “điểm nghẽn” cản trở hiệu quả của hiệp định. Nổi bật là rào cản kỹ thuật và quy định vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS) khắt khe của EU, gây áp lực lớn đối với ngành nông sản, chế biến thực phẩm – vốn còn nhỏ lẻ, manh mún và chưa hình thành chuỗi giá trị toàn cầu.
Bà Dương Phương Thảo, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Italy, dẫn chứng ngành thủy sản đang chịu ảnh hưởng của “thẻ vàng” IUU, khiến xuất khẩu tôm, cá tra gặp khó. Chi phí vận chuyển cao, thời gian giao hàng dài làm giảm độ tươi và sức cạnh tranh, trong khi tiêu chuẩn vệ sinh lại đòi hỏi đầu tư vượt khả năng của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tham tán thương mại Việt Nam tại Italy Dương Phương Thảo trả lời phóng viên TTXVN. Ảnh: Trường Dụy/PV TTXVN tại Italy
Ông Vũ Anh Sơn bổ sung rằng các tiêu chuẩn về dư lượng thuốc trừ sâu, kháng sinh trong SPS của EU thuộc hàng nghiêm ngặt nhất thế giới, tác động mạnh không chỉ đến thủy sản mà còn cả lâm sản và nông sản.
Trong khi đó, Tham tán Đặng Thị Thanh Phương (CHLB Đức) cho biết EVFTA tạo điều kiện cho dược phẩm EU vào Việt Nam, nhưng ngành dược trong nước chưa đủ năng lực về công nghệ, tiêu chuẩn GMP-EU, chất lượng và thương hiệu, nên chưa thể xuất khẩu ngược vào EU.
Nguồn lực hạn chế khiến nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chí khắt khe của EU về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Đặc biệt, việc EU áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) đang tạo thêm áp lực với các ngành thâm dụng năng lượng, đòi hỏi sản phẩm phải thân thiện hơn với môi trường, có khả năng tái chế cao và chứng minh được xuất xứ bền vững.
Các sản phẩm như cà phê, cao su, gỗ… bắt buộc phải có bằng chứng truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Pháp thừa nhận: “Với chuỗi cung ứng gồm hàng triệu hộ nông dân nhỏ lẻ, việc xây dựng một hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch và đáng tin cậy là một bài toán cực kỳ phức tạp.”
Tuy đã có nhiều cải thiện, nhưng thủ tục hành chính, hải quan và các yêu cầu chứng nhận vẫn gây tốn kém, ảnh hưởng đến hiệu quả tận dụng ưu đãi từ EVFTA. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường EU theo cách truyền thống, chưa theo kịp yêu cầu khắt khe về chất lượng, truy xuất nguồn gốc hay phát triển bền vững – đặc biệt trong bối cảnh EU tăng cường áp dụng các quy định như Cơ chế Điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), thời trang bền vững, kinh tế tuần hoàn...
Với chuỗi cung ứng còn rời rạc và phụ thuộc nhiều vào hộ sản xuất nhỏ lẻ, việc đáp ứng các tiêu chí môi trường, xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc đáng tin cậy vẫn là bài toán khó. Trong khi đó, cạnh tranh với các nước trong khu vực ngày càng gay gắt, nhất là khi EU đã ký FTA với MERCOSUR và đang đàm phán với Thái Lan, Indonesia, Australia… Nếu không nâng cao năng lực và thích ứng nhanh, doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ mất dần lợi thế trong cuộc đua vào thị trường EU.
Khơi thông "điểm nghẽn"
Sản xuất giày xuất khẩu sang thị trường Mỹ, châu Âu tại Công ty Hóa dệt Hà Tây. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Những thách thức trên càng làm nổi bật tính cấp thiết của việc thực thi các giải pháp cốt lõi, tổng thể và xuyên suốt nhằm khai thác tối đa lợi ích EVFTA.
Thứ nhất, cần tiếp tục cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống khung pháp lý. Như Giám đốc EIAS Goethals khuyến nghị: “Để tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA, Việt Nam và EU cần cùng nhau thúc đẩy cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục, đồng thời tiếp tục đặt tính bền vững làm trọng tâm trong chương trình hợp tác”. Do đó, Việt Nam cần rà soát lại toàn diện các quy định pháp luật liên quan đến xuất nhập khẩu, đầu tư, sở hữu trí tuệ, quyền lao động, bảo vệ môi trường… để vừa phù hợp cam kết EVFTA, vừa tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Pháp Vũ Anh Sơn nhấn mạnh rằng: “Bối cảnh thương mại toàn cầu đã thay đổi. Cuộc chơi không còn chỉ xoay quanh thuế quan mà được định hình bởi các tiêu chuẩn về tính bền vững và khả năng chống chịu". Thỏa thuận Xanh của EU vừa là thách thức lớn, vừa là cơ hội có một không hai để Việt Nam tự đổi mới và vươn lên, bằng cách kết hợp chiến lược việc thực thi Quan hệ Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với đáp ứng các tiêu chuẩn của CBAM và Chỉ thị về thẩm định chuỗi cung ứng (CSDDD).
Thứ hai cần tăng cường công tác truyền thông, đào tạo, hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong việc tiếp cận, tận dụng ưu đãi từ EVFTA, cũng như thúc đẩy các chương trình tham vấn, cung cấp dịch vụ pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn mới của EU để các doanh nghiệp nắm được. Trước một EU “bài bản, khó tính”, yêu cầu cao về tính bền vững, an toàn và minh bạch, doanh nghiệp Việt cần chủ động đầu tư lâu dài, đổi mới cách thức tiếp cận đối tác, xây dựng các chiến lược tiếp thị hiện đại và có sự chuẩn bị nghiêm túc nhằm đáp ứng các quy định mà EU đặt ra.
Dựa trên kinh nghiệm lâu năm, ông Nguyễn Thành Vinh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Bỉ (VBAB) cho rằng các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng lại chuỗi cung ứng, cả trong nội khối FTA và trong nước, đồng thời chuyển đổi sang sản xuất xanh, sạch, có khả năng tái chế, tái sử dụng. Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo nhân lực, cải tiến công nghệ và học hỏi kinh nghiệm từ các đối tác EU.
Thứ ba, cần vượt qua những thách thức và vươn lên trong chuỗi giá trị, theo đó cần xây dựng năng lượng công nghiệp nội đại vững mạnh, chuyển từ mô hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thụ động, sang chính sách công nghiệp chủ động, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng logistics và kỹ thuật số để giảm chi phí và tăng hiệu quả cạnh tranh.
Ông Luliu Winkler, Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế, Nghị viện châu Âu (EP), cho rằng ngoài những lĩnh vực truyền thống như nông sản, ô tô, dược phẩm và thực phẩm, hai bên cần đẩy mạnh hợp tác trong các ngành công nghệ mới, năng lượng sạch và hiệu quả năng lượng – những lĩnh vực then chốt cho phát triển bền vững.
Trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, để có thể bức phá trên “con đường cao tốc” EVFTA - như ví von của Đại sứ Nguyễn Văn Thảo (Trưởng phái đoàn Việt Nam bên cạnh EU), cả hai bên cần thúc đẩy các sáng kiến hợp tác chiến lược, lấy phát triển xanh và bền vững làm nền tảng. Doanh nghiệp Việt cần chuẩn bị kỹ lưỡng, hiểu rõ thị trường, luật lệ, văn hóa và hệ sinh thái đối tác châu Âu, từ đó mới có thể khai thác trọn vẹn lợi ích EVFTA, đồng thời khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu trong kỷ nguyên mới.