Hợp tác xã Nông sản hữu cơ Kiên Giang, phường An Bình, thành phố Rạch Giá chuyên sản xuất rau thủy canh ăn lá các loại và liên kết với nông dân sản xuất lúa theo hướng hữu cơ. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Lợi ích kép từ mô hình kinh tế tập thể
Vụ lúa Hè thu 2025 vừa qua, gia đình ông Trần Văn Trí, xã Tân Hiệp B, huyện Tân Hiệp sản xuất 6,5 ha lúa, thu hoạch hơn 35 tấn, được Hợp tác xã nông nghiệp Tân An liên kết với công ty xuất khẩu gạo trên địa bàn huyện bao tiêu đầu ra giá lúa tươi giống Đài thơm 6.300 đồng/kg, cao hơn giá bán ngoài thị trường 200 đồng/kg, tổng lợi nhuận từ vụ lúa hơn 100 triệu đồng.
Ông Trí cho biết: Từ năm 2020 đến nay, tham gia sản xuất trong Hợp tác xã Tân An giúp nông dân địa phương sản xuất được 3 vụ lúa trong năm, ít bị ảnh hưởng nhờ hệ thống ô đê bao khép kín, trạm bơm tát tập trung. Trung bình mỗi ha lúa của nông dân trong hợp tác xã giảm chi phí mỗi vụ lúa hơn 20 triệu đồng nhờ sử dụng các dịch vụ bơm tát tập trung, sử dụng các dịch vụ cày xới đất, gieo sạ lúa, bón phân, phun thuốc của hợp tác xã… Đặc biệt, được đầu ra hạt lúa luôn ổn định với mức giá cao hơn bên ngoài, giúp tăng lợi nhuận cho nông dân.
“Tôi nghĩ, bên cạnh lợi ích về kinh tế, mô hình kinh tế hợp tác xã còn giúp nông dân phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, sản xuất lúa hàng hóa theo định hướng của thị trường xuất khẩu. Bởi, nếu ở giai đoạn hiện nay, nông dân không thể tự mình muốn chọn giống lúa gì, cũng không thể tự mình lên lịch gieo sạ mà phải có sự hợp tác, thống nhất trong cùng một cánh đồng lúa, hoặc tổ hợp tác, hợp tác xã mới đạt được năng suất, lợi nhuận”, ông Trí nói.
Ông Nguyễn Văn Bảy, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Tân An cho biết: Đơn vị hiện có 50 thành viên với tổng diện tích sản xuất lúa 92ha và 100% được liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu bao tiêu đầu ra, định hướng chọn giống lúa gieo trồng, thỏa thuận giá cả hợp lý, cao hơn thị trường khi thu mua của nông dân vào mùa thu hoạch.
“Chúng tôi luôn gắn kết chặt chẽ với nông dân, doanh nghiệp và làm đầu mối liên kết để quá trình sản xuất, từ khâu chọn giống lúa, sử dụng các loại thuốc, phân bón phù hợp theo doanh nghiệp thu mua, lên kế hoạch thu mua lúa, thỏa thuận giá cả…để đảm bảo uy tín, quyền lợi của đôi bên. Riêng về các dịch vụ bơm tát, phun thuốc, bón phân, làm đất, thu hoạch lúa… hợp tác xã chủ động hợp tác với các chủ máy đưa ra mức giá thấp hơn bên ngoài để các thành viên hợp tác xã giảm chi phí, tăng lợi nhuận”, ông Bảy chia sẻ.
Là một trong những hợp tác xã có diện tích trồng dứa lớn ở tỉnh Kiên Giang, ông Nguyễn Văn Minh, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp nông dân dứa Vĩnh Phú, cho biết hợp tác xã có 55 thành viên, sản xuất trên diện tích gần 70ha, sản lượng dứa thu hoạch mỗi năm khoảng 1,4 triệu trái.
Theo ông Minh, nghề trồng dứa ở xã Vĩnh Phú nói riêng, huyện Giồng Riềng nói chung được hình thành từ năm 2010 và phát triển mạnh từ năm 2015-2020, khi huyện có chủ trương chuyển đổi diện tích đất vườn tạp, đất nhiễm phèn trồng lúa, trồng tràm kém hiệu quả sang trồng dứa.
Tuy nhiên, từ năm 2021 trở về trước, đầu ra trái dứa không ổn định và giá khá thấp, chỉ từ 5.000-6.000 đồng/trái, nông dân có lời khá thấp. Còn từ năm 2022 đến nay, dứa của hợp tác xã được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao, trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, có được thương hiệu nên nhiều thương lái đặt hàng thu mua để cung ứng cho các siêu thị, công ty sản xuất, chế biến nên giá bán cao và ổn định hơn trước.
Ông Minh cũng cho hay từ năm 2022 đến nay giá dứa duy trì ở mức khá cao, loại nhất (trái đạt trọng lượng từ 1kg trở lên) từ 11.000 - 12.000 đồng/trái, loại nhì (trái có trọng lượng dưới 1 kg) có giá 8.000 - 10.000 đồng/trái. Trung bình mỗi ha thu hoạch được từ 19.000 - 20.000 trái, sau khi trừ các khoản chi phí nông dân lợi nhuận từ 120 - 140 triệu đồng/ha.
Ông Trần Minh Hoàng, thành viên Hợp tác xã nông nghiệp nông dân dứa Vĩnh Phú cho hay, gia đình trổng 3ha dứa, mỗi năm thu hoạch 2 vụ chính với lợi nhuận hơn 350 triệu đồng. Mức lợi nhuận này tăng hơn 60 triệu đồng so với thời điểm trước khi tham gia hợp tác xã, nguyên nhân là trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và được doanh nghiệp liên kết với hợp tác xã thu mua với giá cao hơn ngoài thị trường từ 1.500 - 2.000 đồng/trái. Đồng thời, ông Hoàng sử dụng lượng phân bón tiết kiệm, không sử dụng thuốc hóa học tiết kiệm chi phí đầu tư.
Nâng cao vai trò, năng lực hợp tác xã
Lãnh đạo Liên minh Hợp tác xã tỉnh Kiên Giang đánh giá, hầu hết các hợp tác xã nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh từ năm 2020 đến nay hoạt động khá hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định sản xuất, kinh doanh của thành viên và nông dân và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế bền vững.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít hợp tác xã hoạt động không ổn định, kém hiệu quả. Nguyên nhân là do các thành viên hợp tác xã đa số là các hộ nông dân, quy mô, năng lực sản xuất còn hạn chế; lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp lợi nhuận thấp, chịu nhiều rủi ro nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu, thị trường giá cả tường xuyên biến động.
Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh Kiên Giang Phạm Thành Trăm cho biết: Hợp tác xã là nhân tố quan trọng trong sản xuất hàng hóa thị trường thích ứng với biến đổi khí hậu. Chính vì vậy, cần chú trọng nâng cao năng lực, vai trò của hợp tác xã như: tăng cường hỗ trợ nguồn vốn vay không phải thế chấp tài sản để hợp tác xã đảm bảo tài chính trong thực hiện liên kết cung ứng vật tư nông nghiệp, mua máy móc, thực hiện các dịch vụ nông nghiệp đầu vào cho đến thu mua nông sản của nông dân; chú trọng phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực về quản lý Nhà nước và quản trị sản xuất, kinh doanh cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Đối với chính quyền địa phương cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn như thủy lợi, giao thông nông thôn, điện phục vụ cho bơm tát, xây dựng cánh đồng lớn. Cùng với đó, tập trung tổ chức sản xuất gắn với quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu đặc trưng tại địa phương, chuẩn hóa quy trình, tiêu chuẩn và phát triển sản phẩm OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm) theo chuỗi giá trị, phù hợp với lợi thế về điều kiện sản xuất và yêu cầu thị trường; tìm kiếm lựa chọn và giới thiệu doanh nghiệp có uy tín và năng lực tiêu thụ sản phẩm cho hợp tác xã.