Cây vải thiều được đánh giá phù hợp với thổ nhưỡng, đất đai, khí hậu Đắk Lắk và chín sớm hơn khoảng một tháng so với vụ thu hoạch vải thiều ở các tỉnh phía Bắc, do đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Ngành nông nghiệp, các địa phương tại tỉnh Đắk Lắk đang triển khai nhiều giải pháp để nâng cao vị thế, phát triển ổn định cây vải thiều.
Cây “xóa đói giảm nghèo”
Huyện Ea Kar là địa phương có diện tích trồng vải thiều lớn nhất tỉnh Đắk Lắk với 918 ha, sản lượng năm 2023 ước đạt 9.105 tấn. Năm nay, thời tiết thuận lợi, giá bán tương đối cao, đầu ra thuận lợi, nông dân trồng vải khá phấn khởi.
Gia đình anh Lương Đình Hùng, xã Ea Ô, huyện Ea Kar trước đây trồng cây quýt song đạt hiệu quả không cao. Năm 2012, gia đình anh Hùng mạnh dạn chuyển đổi, trồng chuyên canh 600 cây vải u hồng trên diện tích 2 ha của gia đình. Do phù hợp thổ nhưỡng, sau 3 năm chăm sóc, cây vải cho thu bói. Đến nay, vườn vải của gia đình anh Hùng đã cho thu hoạch ổn định, năng suất tăng dần theo từng năm. Năm 2022, gia đình anh Hùng thu được 30 tấn vải. Dự kiến, năm 2023 thu được khoảng 40 - 50 tấn vải. Với giá bán từ 30.000 - 35.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, gia đình anh Hùng lãi hơn 1 tỷ đồng.
Còn gia đình ông Nguyễn Xuân Toàn (cùng trú xã Ea Ô, huyện Ea Kar) từ tỉnh Nghệ An vào tỉnh Đắk Lắk lập nghiệp hơn 20 năm nay. Tương tự gia đình anh Hùng, trong nhiều năm, gia đình ông Toàn loay hoay lựa chọn cây trồng phù hợp để phát triển kinh tế. Năm 2017, gia đình ông Toàn chuyển đổi 7 ha trồng cao su sang trồng vải thiều. Năng suất năm 2023 đạt khoảng 40 - 45 tấn vải. Theo ông Toàn, cây vải không kén đất, chăm sóc chỉ cần đủ phân, đủ nước và chú ý bệnh sâu cuống.
Vải thiều ở Đắk Lắk cho vị ngọt thanh, quả to, chín sớm nên giá thu mua cao hơn so với vải chính vụ. Vải thiều được xem là cây “xóa đói giảm nghèo” ở một số địa phương của tỉnh. Xã Ea Hu, huyện Cư Kuin có 18 ha trồng vải đang trong thời kỳ kinh doanh. Cây vải trên địa bàn xã được trồng với kỹ thuật cao, giúp nhiều hộ nông dân thoát nghèo, phát triển kinh tế ổn định. Từ đầu tháng 4/2023, lượng vải thiều sau thu hoạch trên địa bàn xã được các thương lái ở nhiều nơi đến mua, cung không đủ cầu.
Gia đình ông Hà Văn Quân, thôn 5, xã Ea Hu, huyện Cư Kuin trồng thử nghiệm cây vải khoảng 20 năm nay. Được hỗ trợ vốn vay 50 triệu đồng của Ngân hàng Chính sách xã hội, năm 2020, gia đình ông trồng 2 ha vải u hồng. Năm nay, gia đình ông thu được 20 tấn vải, lãi 500 triệu đồng. Gia đình ông hiện đã thoát nghèo, chú trọng chăm sóc vườn vải để phát triển kinh tế ổn định. Theo ông Quân, cây vải cần chi phí đầu tư ít, lãi nhiều hơn trồng cây cà phê. Nếu chăm sóc tốt, sau khi trồng khoảng 24 tháng, cây vải sẽ cho thu bói, sau 36 tháng sẽ cho thu hoạch ổn định.
Hiện nay, người dân Đắk Lắk trồng chủ yếu 3 loại giống vải là u hồng, u thâm và u trứng. Giống được nhập chủ yếu từ các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Ninh. Sản phẩm vải thiều Đắk Lắk chủ yếu được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu chính ngạch sang một số thị trường như Nhật Bản, Trung Quốc, tuy nhiên số lượng xuất khẩu còn ít.
Phát triển ổn định
Để phát triển cây vải ổn định, huyện Ea Kar đã thành lập 1 hợp tác xã chuyên sản xuất cung ứng giống cây vải thiều, 1 hợp tác xã nông nghiệp và 2 tổ hợp tác chuyên sản xuất vải thiều. Đồng thời, huyện đã hình thành vùng sản xuất vải thiều theo quy trình VietGAP và được cấp chứng nhận với quy mô 78,5 ha; đề xuất gắn 4 mã số vùng trồng với diện tích 48,5 ha. Ngoài ra, huyện đã lập hồ sơ đăng ký nhãn hiệu tập thể ”Vải thiều Ea Kar”.
Tuy nhiên, trong sản xuất vải thiều trên địa bàn huyện còn gặp một số khó khăn như: diện tích trồng vải manh mún, nhỏ lẻ, khó khăn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng cơ giới hoá. Nguồn nước tưới phục vụ phát triển cây vải tại một số địa bàn gặp khó khăn. Diện tích vải được tổ chức sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng còn ít, chưa được gắn mã số vùng trồng, chưa đáp ứng được các thị trường trong nước cũng như xuất khẩu; thiếu các cơ sở bảo quản đủ tiêu chuẩn để lưu trữ sản phẩm.
Ông Trần Văn Đông, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Ea Kar cho biết, huyện phấn đấu đến năm 2025, diện tích trồng vải đạt khoảng 2.000 ha. Thời gian tới, huyện tăng cường các hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người trồng vải; xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tác xã, tổ hợp tác trồng vải; đề nghị gắn mã số vùng trồng và phát triển nhãn hiệu tập thể “Vải thiều Ea Kar”, phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất cây vải…
Phó Chủ tịch UBND xã Ea Hu (huyện Cư Kuin) Phạm Thanh Hoằng cho biết, xã xác định cây vải thiều là một trong hai cây trồng chủ lực cải thiện thu nhập cho người dân. Xã đã phổ biến khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện cho nông dân đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm trồng vải. Thời gian tới, xã tập trung quy hoạch vùng trồng, khuyến khích người dân phát triển cây vải theo quy hoạch. Đồng thời, xã chú trọng xây dựng mã vùng trồng, hình thành chuỗi sản xuất trong trồng vải, tạo đầu ra ổn định cho nông dân, tránh phụ thuộc vào giá cả bấp bênh của thị trường.
Hiệu quả của cây vải thiều ở Đắk Lắk khá cao, song số lượng xuất khẩu ít. Nguyên nhân được đánh giá là do độ chín chưa đồng đều, quả vải còn nám, việc cấp mã số vùng trồng chưa được nhiều. Một số kiến nghị cho rằng, để quả vải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và phát triển ổn định, bên cạnh việc hỗ trợ xây dựng mã vùng trồng, các ngành, địa phương, nhà khoa học cần đồng hành với nông dân trong kỹ thuật trồng, chăm sóc cây vải, tiêu thụ sản phẩm.
Ông Lê Văn Thành, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk) cho biết, toàn tỉnh có khoảng 2.569 ha trồng vải. Hiện nay, quả vải là 1 trong các loại trái cây được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc.
Để quả vải đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu, ngành nông nghiệp tăng cường hỗ trợ các địa phương trong công tác cấp mã số vùng trồng để truy xuất nguồn gốc. Đến nay, toàn tỉnh có 9 vùng trồng vải với tổng diện tích 110 ha tại huyện Krông Năng đã được cấp mã số phục vụ xuất khẩu sang Trung Quốc. Ngoài ra, ngành nông nghiệp tăng cường tuyên truyền, tập huấn cho nông dân để sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng; xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ vải thiều.
Ông Lê Văn Thành khuyến cáo, mặc dù vải thiều có lợi thế chín sớm hơn các tỉnh phía Bắc, giá bán khá cao, mang lại thu nhập tốt cho người sản xuất. Tuy nhiên, người dân cần thận trọng khi mở rộng diện tích trồng mới, chú trọng kỹ thuật chăm sóc, thâm canh các vườn đang cho năng suất ổn định, không đầu tư vào những vùng kém hiệu quả; chăm sóc cây vải theo hướng hữu cơ, VietGAP, GlobalGAP.