Chiêm nghiệm 'tuổi heo may'

Ngay từ khi dấn thân vào nghề báo ở tuổi đôi mươi, Trần Mai Hưởng đã dành riêng một khoảng hẹp trên trang viết để nghiệp thơ ùa vào chậm rãi.

Giống như tôi, anh đã có mặt ở chiến trường “mùa hè đỏ lửa” Quảng Trị. Và bắt đầu viết những câu thơ bỏng rãy thanh xuân. Dù bắt đầu, nhưng Trần Mai Hưởng vẫn bắt nhịp được âm hưởng thơ dạo ấy. Bài thơ “Giếng nước dưới địa đạo” in báo Văn Nghệ thời gian đó là minh chứng cho nhận định này. Chớp được cái tứ rất độc đáo “Giếng nước dưới địa đạo”, Trần Mai Hưởng đã nhanh chóng triển khai cảm xúc thành một bài thơ toàn bích, không hề non tay.

Chú thích ảnh
Tập thơ Tuổi heo may của nhà báo, nhà thơ Trần Mai Hưởng.

"Chẳng có bóng cau xoã ngang trời

Những đám mây trôi các cô gái làng đùa nghịch

Chỉ mạch nước ngàn đời trong vắt

Giếng nước giữa lòng địa đạo hầm sâu

Cội nguồn nước tận đâu

Mà mắt đất mở ra lúc nào cũng long lanh thế"

Thi ảnh “mắt đất” là một thi ảnh sáng tạo mà Trần Mai Hưởng đã dùng để đặt tên cho “Giếng nước dưới địa đạo”. Anh tiếp tục triển khai cho tứ thơ thật vững tay:

"Cũng cái gầu đứt dây rơi xuống

Biết mượn ai xuống vớt lên

Giếng nước này là nơi mẹ dặn con

Tối nhớ rửa chân tay cho sạch

Lời dặn ân cần như trên mặt đất

Làm con quên không biết ở làng hầm

Giếng nước này là nơi anh và em

Đêm tuần biển về múc lên rửa mặt

Ngẩng nhìn chẳng bóng trăng bát ngát

Chỉ mắt người lung linh”

Triết lý sống trong chiến tranh đã được đẩy lên tột cùng sau cái tứ “Giếng nước dưới địa đạo”:

"Bom Mỹ không ngừng dội xuống đêm đêm

Pháo biển cày từng vuông cát nhỏ

Địa đạo bình yên trong lòng đất mẹ

Có tiếng cười mặt giếng khẽ rung rinh"

Một đối tỷ thật nặng cân giữa những vũ khí huỷ diệt và tiếng cười, đã “ý tại ngôn ngoại” cái sức sống bền bỉ của dân tộc ta thời binh lửa...

Nhưng nghề báo đã chọn Trần Mai Hưởng để anh được chứng kiến thời khắc trưa 30/4/1975, để được trở thành một cây bút kỳ cựu của làng báo, để rồi chất báo chí ngấm vào thơ lúc nào không hay. Dạo ấy, nếu tiếp tục mạch thơ của “Giếng nước dưới địa đạo”, chắc hẳn Trần Mai Hưởng sẽ có một bài thơ về thời khắc trưa 30/4/1975 chứa chan cảm xúc hơn như bao nhà thơ dạo ấy. Song anh đã để cho cảm xúc đi qua những trang báo, để mãi sau mới chậm rãi chiêm nghiệm một cách nén lại cảm xúc một cách tột độ trong "Ý nghĩ trong đêm":

"Có gì vậy

Đêm phương nam yên tĩnh

Thành phố đang ngủ say

Một mình thức giấc

Tôi đã đến đây

Một thời trẻ trung gian khó

Khoảnh khắc không quên

Ngày hoà bình đầu tiên

Tôi đã rời đây

Như bao người lính

Trở về với ruộng đồng

Sau những năm trận mạc

Tôi ghé lại đây

Cuối đời sương khói

Mảnh đất vấn vương quen lạ

Một hình bóng đã xa"

Nhờ chiêm nghiệm mà thơ Trần Mai Hưởng rắn lại, cô đọng cảm xúc thành những viên sỏi trên tay:

"Mùa xuân đầu tiên

Những người đầu tiên

Niềm vui đầu tiên

Nỗi buồn đầu tiên

Cô nữ sinh áo trắng

Hồn nhiên

Như một tia nắng

Buổi bình minh

Em có còn cầm trên tay

Những ngày xuân ấy

Cho tôi mượn lại

Dù chỉ một lần!"

Chú thích ảnh
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, tác giả lời tựa cho tập thơ Tuổi heo may của nhà báo, nhà thơ Trần Mai Hưởng

Tôi đưa ra hai bài thơ của Trần Mai Hưởng ở hai thời khắc thanh xuân và “Tuổi heo may “ để người đọc dễ nhận ra hành trình thơ của anh, một hành trình mà nghề báo và nghiệp thơ luôn thẩm thấu vào nhau, luôn luôn giằng co nhau, kiểm soát nhau để làm nên tầm vóc riêng của một giọng thơ. Nồng nàn có kiểu hay của nồng nàn. Chiêm nghiệm có kiểu hay của chiêm nghiệm. Giống như nhà thơ Mỹ giải Nobel- Robertfrode đã nói: "Thơ khởi sự là sự hồn nhiên và kết cục là sự khôn ngoan". Có lẽ bằng cặp mắt tinh đời của một nhà báo chuyên nghiệp, dạn dày đời sống, từng trải ái, ố, hỷ, nộ, Trần Mai Hưởng luôn có ý thức định lượng những giá trị người muôn đời nay đã tồn tại, đã tạo ra bao thăng trầm của lịch sử. Anh định lượng về “Kết đôi”, về “Hai nửa”, về “Valentine’s Day”, về “Tình yêu”, về “Một nửa “, về “Hạnh phúc", về “Nắng và mưa”, về "Một giây”, về “Vô định “, về “Giọt”, về “Nếu”, về “Song song", về “Thanh thản", về “Chạm", về “Đơn phương", về “Chòng chành”, về “Tuyết”, về “Mong manh", về “Ngại”, về “Vòng tròn":

"Một vòng quay nữa của đất trời

Con thuyền đơn độc giữa dòng trôi

Những buồn vui cũ chừng hoá đá

Mà vẫn đâu đây tiếng khóc cười"

Trần Mai Hưởng là một trong không nhiều nhà thơ có duyên làm thơ về hoa. Hoa qua Trần Mai Hưởng ánh lên một vẻ đẹp là lạ dù là loài hoa rất quen và được viết bằng thể thơ lục bát rất thân quen. Bài “Đào muộn" là một điển hình:

"- Mồng 5 Tết vẫn bán đào?

- Ơ kìa, xuân mới chạm vào thôi anh

Nụ hồng chúm chím lộc xanh

Còn bao ngày tháng người dành cho nhau"

Lục bát mà còn là lục bát tứ tuyệt thì sự độc đáo lại càng đậm đà hơn. Đó là “Hoa Ti gôn”: “Đỏ sao đỏ đến lạ lùng". Đó là “Hoa Quỳnh": “Một tấm tình", là “Hoa bưởi": “Em về mang cả tháng Ba theo cùng", là “ Sen ngày mưa": “Bao nhiêu nắng lửa bất ngờ dịu êm", là “Hoa loa kèn": “Thổi gì qua suốt tháng năm", là “Hoa Lưu ly": “Tình cờ ở chốn nhân gian”, là “Hoa sữa": “Em đừng giấu cả vào đêm”, là “Hoa Cà phê": “Trắng trong năm cánh hồn nhiên", là “Hoa xoan": “Mình em vò võ tháng ngày cô đơn",là “Hoa phượng": “Cháy lên cùng tiếng ve ran gọi hè", là “Hoa Cỏ lau": “Để muôn nỗi nhớ trắng lên bời bời”.

Thơ mùa thu của Trần Mai Hưởng cũng là một đặc sản rất Trần Mai Hưởng. Nếu câu thơ về “Mùa thu ở Hàng Châu” của Tế Hanh rất tinh tế: "Lá phong đỏ như mối tình rực lửa. Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa" thì “Mùa thu ở Hàng Châu" của Trần Mai Hưởng đã đẩy thi ảnh đến tận cùng “Lá phong cháy hết mối tình. Day dưa nỗi nhớ một mình hoa thôi". Mùa thu Nga hiện lên trong thơ Trần Mai Hưởng sao thật diệu vợi: “Ngày dài đêm trốn trong cây. Bạch dương trắng nỗi hao gầy tháng năm". Cảm nhận sắc độ thu đã từng làm ra câu thơ độc đáo của Chu Hoạch: “Thu rất thật thu là lúc chớm đông sang", thì ở Trần Mai Hưởng, sắc độ đó trắc ẩn đến chạnh lòng: “Thu đang về ngang cửa. Nghĩa là thu sắp xa". Nếu ở Lê Nguyên cảm nhận nắng là: “Trên đất mẹ nắng hồng như lửa", thì ở Trần Mai Hưởng, màu hồng đã chuyển thành vàng: "Nắng vàng như lụa mới. Ai phơi giữa đất trời". Vì đấy là nắng thu chăng? Cũng có một cái gì đó rất Đặng Thế Phong, khi Trần Mai Hưởng viết về mưa thu: “Mùa đi cùng năm tháng. Giọt đêm gọi giọt ngày. Mưa thì thầm bên cửa. Những nỗi niềm heo may".

Có những lúc chàng ký giả trong Trần Mai Hưởng thiếp ngủ, chàng thi sĩ trong anh thoát khỏi tầm kiểm soát, chợt chất ngất lên những cung bậc khác thường. Tôi rất mê những câu thơ thi sĩ ấy. Đấy là “Hương tràm": “Anh mắc vào làn hương ấy. Em treo cuối ánh mắt nhìn”. Đấy là “Mưa đêm": “Nghe thời gian trở mình trên cành lá - Lẫn trong mưa như như một tiếng thở dài". Đấy là “Thu nuộn": “Nắng vàng nằm lại trong cây". Đấy là “Mùa đông": “Gió bấc kéo ngay đi ngang cửa - Như đám học trò lúc ra chơi" hay “Mảnh khăn len ai quàng vai nhau vội". Đấy là “Mắt gió": “Lối nào còn dấu chân anh - Mà sao năm tháng đã thành xa xôi". Đấy là “Thời gian": “Người đi về cõi hư không - Thoáng như vệt nắng quái buông bên thềm". Đấy là “Nếu": “Nhưng đôi khi chữ nếu - Dài hơn một kiếp người". Đấy là “Samara": “Tiếng còi khàn còn ướt sương đêm”.

Đọc "Tuổi heo may" của Trần Mai Hưởng thấy lòng điềm tĩnh lại như những chiêm nghiệm điềm tĩnh qua thơ anh. Ngỡ đấy là bình thường nhưng đấy chính là bản lĩnh của người viết. Không dễ dàng có thể vượt qua tư duy của một chính khách, khi anh đã có sự nghiệp của một chính khách. Bản lĩnh chính là anh đã thoát xác một cách nhẹ nhàng, một cách như không để nhận thấy cuộc đời là vô hạn, là bao trùm lên sự hữu hạn của từng thời đại, từng thăng trầm lịch sử. Nhờ bản lĩnh ấy, ta có thêm giọng thơ Trần Mai Hưởng trong dàn giao hưởng thơ Việt Nam ngày càng da diết hơn, ngày càng réo rắt hơn những cung bậc đời thường.

Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha
Hoa đá trên đỉnh trời
Hoa đá trên đỉnh trời

Báo Tin tức xin giới thiệu cùng bạn đọc bài ghi chép viết năm 1983 của tác giả Trần Mai Hưởng - nguyên Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam. Bài viết đã được trao giải cuộc thi bút ký của báo Văn Nghệ năm 1984 và in trong tuyển chọn các bài báo hay của Hội Nhà báo Việt Nam thời kỳ này.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN